Nhìn lại lịch sử gần 50 năm xét duyệt giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam

Nhìn lại lịch sử gần 50 năm xét duyệt giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam

10/03/2025 06:35
Doãn Nhàn
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Kể từ lần phong đặc cách đầu tiên năm 1976, tính đến nay, công tác xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư ở nước ta đã trải qua gần 50 năm (1976-2025).

Lịch sử gần 50 năm xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư

Nhà nước ta bắt đầu thực hiện việc phong chức danh giáo sư, phó giáo sư từ năm 1976, dựa trên Quyết định số 162-CP ngày 11/9/1976 của Hội đồng Chính phủ, quy định về hệ thống chức vụ khoa học và tiêu chuẩn các chức vụ khoa học trong lĩnh vực công tác giảng dạy đại học và công tác nghiên cứu khoa học.

Theo đó, đợt phong hàm giáo sư đầu tiên tại Việt Nam đã công nhận 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu, bao gồm: 5 giáo sư ngành Sử học, 3 giáo sư ngành Văn học, 1 giáo sư ngành Triết học, 2 giáo sư ngành Toán học, 1 giáo sư ngành Vật lý, 1 giáo sư ngành Hóa học, 14 giáo sư ngành Y học, 1 giáo sư ngành Nông học và 1 giáo sư ngành Cơ khí.

Sau lần phong hàm đầu tiên, từ năm 1980 đến năm 1997, Chính phủ đã có 9 lần tổ chức xét và công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư.

2-31.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Hoa Sen

Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2001/NĐ-CP "Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức danh giáo sư, phó giáo sư". Căn cứ theo nghị định này, việc xét công nhận các chức danh giáo sư và phó giáo sư, được căn cứ vào tiêu chuẩn và thực hiện hàng năm.

Nhằm nâng cao chất lượng xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư theo hướng hội nhập quốc tế, thực hiện Luật Giáo dục 2005, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng hệ thống văn bản pháp quy mới. Ban soạn thảo do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước chủ trì, với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, nhà khoa học và nhà giáo uy tín. [1]

Trên cơ sở đó, ngày 31/12/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Năm 2012, Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg.

Sau đó, năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg.

Đến năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2018 về “quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư”. Quyết định này thay thế Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg.

Năm 2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 25/2020/QĐ-TTg để sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg.

Như vậy, đến nay công tác xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư ở nước ta đã trải qua gần 50 năm (1976-2025). Trong đó, năm 2025 đánh dấu năm thứ 7 triển khai công tác xét duyệt, công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg và năm thứ 6 thực hiện những điều chỉnh theo Quyết định số 25/2020/QĐ-TTg.

Cách gọi giáo sư và phó giáo sư qua các thời kỳ

CÁCH GỌI TÊN (1).png

Cách gọi giáo sư và phó giáo sư ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi qua các giai đoạn, phản ánh sự điều chỉnh trong chính sách giáo dục và khoa học. Trước năm 1995, giáo sư, phó giáo sư được xem là chức vụ khoa học, sau đó được xác định là học hàm (1995) và từ năm 2001 đến nay, chính thức được quy định là chức danh trong giáo dục đại học.

Cụ thể, giai đoạn 1976 – 1989, theo Quyết định số 162-CP (1976), giáo sư, phó giáo sư được xác định là chức vụ khoa học, áp dụng chung cho cả giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Việc xét công nhận do Chính phủ trực tiếp đảm nhiệm.

Giai đoạn 1989 – 1995, sau khi Nghị định số 153-HĐBT (1989) được ban hành, công tác xét công nhận giáo sư, phó giáo sư vẫn tiếp tục được thực hiện, nhưng vẫn được coi là chức danh khoa học, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa học hàm và chức danh. Tuy nhiên, từ năm 1989, công tác xét duyệt giáo sư, phó giáo sư không còn do Chính phủ trực tiếp đảm nhiệm mà được chuyển giao cho một hội đồng chuyên môn, với tên gọi Hội đồng xét duyệt học vị và Chức danh khoa học Nhà nước (nay là Hội đồng Giáo sư nhà nước).

Đến năm 1995, với Nghị định số 21/CP, giáo sư, phó giáo sư lần đầu tiên được xác định là học hàm, không còn là chức danh viên chức nhà nước. Đây là dấu mốc quan trọng trong việc thay đổi cơ chế xét duyệt.

Từ năm 2001 đến nay, theo Nghị định số 20/2001/NĐ-CP, giáo sư, phó giáo sư chính thức được xác định là chức danh trong hệ thống giáo dục đại học, đồng thời quy định quy trình xét duyệt có hai bước: xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh.

Cách gọi này tiếp tục được duy trì và cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý như Quyết định 174/2008/QĐ-TTg, Quyết định 20/2012/QĐ-TTg, Quyết định 37/2018/QĐ-TTg và Quyết định 25/2020/QĐ-TTg, với những điều chỉnh về tiêu chuẩn và quy trình xét duyệt nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

Về quyền bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng có sự thay đổi qua các giai đoạn.

Trước năm 2008, việc bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư do cơ quan Nhà nước, gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), theo quy định tại Nghị định 20/2001/NĐ-CP.

Từ năm 2008, quyền bổ nhiệm được chuyển giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo theo Quyết định 174/2008/QĐ-TTg.

Từ năm 2012 đến nay, thẩm quyền bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư được giao cho người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học, dựa trên kết quả xét duyệt của Hội đồng Giáo sư Nhà nước (theo Quyết định 20/2012/QĐ-TTg).

Tên gọi Hội đồng Giáo sư nhà nước qua các thời kỳ

Hội đồng Giáo sư nhà nước được thành lập từ năm 1989 và đã trải qua nhiều lần đổi tên để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Ban đầu, Hội đồng ra đời với tên gọi Hội đồng xét duyệt học vị và chức danh khoa học nhà nước, theo Nghị định 153-HĐBT do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký ban hành. Đây là dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho hệ thống xét duyệt học vị và chức danh khoa học ở Việt Nam.

Đến ngày 4/3/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký Nghị định số 21/CP, đổi tên thành Hội đồng Học hàm nhà nước, phản ánh rõ hơn nhiệm vụ xét duyệt và phong học hàm giáo sư, phó giáo sư.

Tiếp đó, ngày 19/9/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải ký Quyết định số 138/2001/QĐ-TTg, đổi tên thành Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước, tên gọi này được duy trì từ 2001 - 2018. Đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự hoàn thiện của cơ chế xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư theo tiêu chuẩn cụ thể.

Ngày 24/12/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ban hành Quyết định 1814/QĐ-TTg, thống nhất cách gọi Hội đồng Giáo sư nhà nước, được duy trì cho đến nay.

Đồ họaàn thức 2 (CMC200) Xét tuyển dựa vào kết quả học tập bậc THPT với điểm trung bình (TB) môn theo tổ hợp môn xét tuyển, không cộng điểm ưu tiên. Điểm xét tuyển được tính theo công thức như sau.png

Theo Thông tư số 04/2019/TT-BGDĐT ngày 28/3/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định về Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Giáo sư nhà nước, các Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành và Hội đồng Giáo sư cơ sở, cơ cấu tổ chức của Hội đồng Giáo sư nhà nước gồm Thường trực hội đồng và các Ủy viên. Trong đó, Thường trực hội đồng gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký và các Phó chủ tịch khác do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Ủy viên là những người đồng thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành, với tổng số hiện tại là 28 người.

Trong hơn 35 năm hoạt động (1989-2025), Hội đồng xét duyệt giáo sư, phó giáo sư đã đảm nhiệm vai trò cầm cân nảy mực trong công tác xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu khoa học chất lượng cao.

Qua các giai đoạn, Hội đồng Giáo sư nhà nước đã được lãnh đạo bởi nhiều Chủ tịch, đều là các Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo qua các thời kỳ. Các Chủ tịch bao gồm: Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân; Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Hiển; Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Minh Hạc; Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Nhân; Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Vũ Luận; Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Xuân Nhạ; và hiện nay là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Kim Sơn.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Giáo sư nhà nước

Điều 14, Quyết định số 37/2018/QĐ-TTG ngày 31/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ:

1. Hội đồng Giáo sư nhà nước tổ chức hướng dẫn hoạt động của các Hội đồng Giáo sư cơ sở và các Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành.

2. Tổ chức thu nhận báo cáo của các cơ sở giáo dục đại học, phân loại hồ sơ của ứng viên do các cơ sở giáo dục đại học đề nghị theo ngành, chuyên ngành khoa học, công khai hồ sơ của ứng viên trên Trang thông tin điện tử của Hội đồng Giáo sư nhà nước và chuyển đến các Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành.

3. Xem xét và thông qua danh sách ứng viên đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư do các Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành đề xuất.

4. Xét các trường hợp đặc biệt đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư; xử lý các trường hợp sai sót, thắc mắc trong quá trình xét của các Hội đồng Giáo sư cơ sở và Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành.

5. Xét hủy bỏ công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư, hủy bỏ công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư của người đã được công nhận nhưng bị phát hiện là không đủ tiêu chuẩn quy định.

6. Phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư (nếu có) theo quy định của pháp luật.

7. Tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc định hướng phát triển đội ngũ giáo sư, phó giáo sư; chất lượng đào tạo tiến sĩ và tham gia xây dựng chính sách phát triển đội ngũ giáo sư, phó giáo sư.

Điều 6, Thông tư số 04/2019/TT-BGDĐT ngày 28/3/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo:

1. Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại Điều 14 Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg.

2. Thông qua kế hoạch xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư hàng năm do Văn phòng Hội đồng Giáo sư nhà nước đề xuất.

3. Hàng năm, bổ sung và cập nhật những nội dung cần thiết, phù hợp với thực tiễn vào các biểu mẫu trong Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg.

4. Tư vấn cho Chủ tịch Hội đồng trong xác định ngành, chuyên ngành đặc thù; xác định danh mục tạp chí khoa học, nhà xuất bản quốc tế được tính điểm và danh mục tạp chí khoa học, nhà xuất bản có uy tín cho các nhóm ngành; định hướng việc đánh giá chất lượng và phát triển các tạp chí khoa học trong nước.

5. Tham gia xây dựng cơ chế, chính sách và đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ giáo sư, phó giáo sư và chất lượng đào tạo tiến sĩ.

Tài liệu tham khảo:

[1]: https://baochinhphu.vn/hoi-dong-chuc-danh-giao-su-nha-nuoc-tra-loi-ve-viec-xet-cong-nhan-gs-pgs-10288308.htm

Doãn Nhàn