Chuyển đổi số trong giáo dục phổ thông, đại học đạt được nhiều kết quả ấn tượng

06/10/2023 06:31
Phạm Minh
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thu thập được thông tin của 100% trường học bậc mầm non và phổ thông; xây dựng dữ liệu quản lý thừa, thiếu giáo viên,…

Ngày 05/10, Trung tâm Truyền thông và Sự kiện – Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức chương trình: Chia sẻ các thông tin về công tác chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo trước thềm ngày Chuyển đổi số quốc gia (10/10).

Tham dự và trò chuyện tại chương trình có Tiến sĩ Nguyễn Sơn Hải - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chương trình Chia sẻ các thông tin về công tác chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: PM

Chương trình Chia sẻ các thông tin về công tác chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: PM

Thu thập thông tin của 100% trường học bậc mầm non và phổ thông

Chia sẻ về việc kết quả đạt được trong thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục, Tiến sĩ Nguyễn Sơn Hải cho biết, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thu thập được thông tin của 100% trường học (khoảng 53.000 trường) ở bậc mầm non và phổ thông: với 1,6 triệu hồ sơ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; 2,4 triệu hồ sơ, kết quả học tập của học sinh, thông tin về thể chất của học sinh; Kết nối (API) với hơn 17.083 trường học....

Cùng với đó, thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng dữ liệu quản lý thừa, thiếu giáo viên; quản lý sức khoẻ học sinh; quản lý triển khai chương trình Sóng và máy tính cho em; quản lý tiêm vắc xin Covid-19; quản lý, theo dõi giáo viên học sinh F0, F1 giai đoạn dịch Covid-19.

Chương trình được tổ chức nhằm chia sẻ các thông tin về công tác chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chương trình được tổ chức nhằm chia sẻ các thông tin về công tác chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai cơ sở dữ liệu giáo dục đại học (HEMIS): Thu thập, số hoá dữ liệu của 442 cơ sở đào tạo, 152.470 giảng viên, 2.102.165 người học. Đồng thời, thu thập dữ liệu về nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất, tài chính, hợp tác với doanh nghiệp, hợp tác quốc tế

Về việc triển khai Đề án 06 cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Thứ nhất, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư (từ năm 2022): đã đồng bộ, xác thực định danh hơn 24 triệu hồ sơ học sinh, giáo viên (đạt tỷ lệ gần 98%), đã làm giàu dữ liệu của gần 23 triệu hồ sơ học sinh và giáo viên về giáo dục cho cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư. Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong những cơ quan hoàn thành sớm nhất kết nối, đồng bộ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư.

Thứ hai, thực hiện nghiêm, kịp thời chủ trương không dùng sổ hộ khẩu, không dùng Giấy chứng nhận thường trú trong thực hiện các thủ tục hành chính (Nghị định 104/2022): Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục đã kết nối, khai thác dữ liệu lịch sử thường trú của công dân trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Năm 2023 ngành giáo dục đã không sử dụng giấy chứng nhận thường trú, mà khai thác hoàn toàn trực tuyến trên môi trường số cho hàng triệu thí sinh tham gia các kỳ tuyển sinh đầu cấp và tuyển sinh vào đại học.

Thứ ba, thực hiện các thủ tục hành chính thiết yếu bằng hình thức trực tuyến: Thí sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (đạt 93% mỗi năm); Thí sinh đăng ký nguyện vọng xét tuyển đại học trực tuyến (hơn 600.000 thí sinh với hơn 3 triệu nguyện vọng được đăng ký trực tuyến mỗi năm); Thí sinh thanh toán lệ phí xét tuyển đại học trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia (đạt tỷ lệ 97%); Thí sinh xác nhận nhập học đại học trực tuyến trên Cổng tuyển sinh (đạt 81%).

Về thí điểm triển khai học bạ điện tử, sổ điểm điện tử đã giúp giảm áp lực về hồ sơ, sổ sách cho giáo viên và nhà trường; Minh bạch hóa quá trình quản lý kết quả học tập, rèn luyện học sinh; hạn chế các bất cập về sửa kết quả học tập

Đây cũng là giải pháp để thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong công tác quản lý, điều hành; đẩy mạnh cải cách hành chính trong ngành giáo dục.

Về chuyển đổi số trong dạy và học, Bộ Giáo dục và đào tạo đã thực hiện hơn 7000 bài giảng E-learning và video bài giảng, thực hiện bản điện tử toàn bộ các bộ sách giáo khoa phổ thông.

Giai đoạn dịch COVID-19 có gần 80% học sinh Việt Nam tiếp cận các hình thức dạy học trực tuyến.

Bộ đã ban hành Thông tư số 09/2021/TT-BGDĐT quy định dạy học trực tuyến trong giáo dục phổ thông; Dạy học trực tuyến có vai trò hỗ trợ hoặc thay thế học trực tiếp (trong một số trường hợp).

Dạy học trực tuyến tiếp tục duy trì, triển khai ngay cả trong điều kiện học sinh đến lớp bình thường (có hình thức triển khai phù hợp trước, trong và sau mỗi giờ học trực tiếp).

Đồng thời, tăng cường hình thức đánh giá trực tuyến (đối với các bài kiểm tra thường xuyên) và thi trên máy tính (đối với các bài thi định kỳ).

Xây dựng nền tảng đào tạo trực tuyến mở, dùng chung cho các trường đại học

Đối với giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang cùng các trường đại học xây dựng nền tảng đào tạo trực tuyến mở, dùng chung cho các trường đại học (MOET-MOOC).

Tiến sĩ Nguyễn Sơn Hải, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo chia sẻ tại chương trình.

Tiến sĩ Nguyễn Sơn Hải, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo chia sẻ tại chương trình.

Có 7 nhóm ngành đào tạo sẽ do 7 cơ sở đào tạo chủ trì, phối hợp với các trường liên quan tham gia xây dựng và sử dụng chung trên hệ thống.

Các cơ sở đào tạo có thể công nhận tín chỉ lẫn nhau của các khóa học trực tuyến trên hệ thống (sinh viên của trường này có thể học khóa học của trường khác nếu được công nhận tín chỉ). Có thể dễ dàng hội nhập quốc tế trong đào tạo trên nền tảng đào tạo trực tuyến

Bộ cũng đang xây dựng và chuẩn bị trình Thủ tướng phê duyệt Đề án thí điểm mô hình giáo dục đại học số.

Chia sẻ về những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện chuyển đổi số, Tiến sĩ Nguyễn Sơn Hải cho biết, hiện nay, nhận thức đúng về vị trí, vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và việc trang bị kiến thức, kỹ năng số chưa đến được tất cả cán bộ quản lý giáo dục, người dạy, người học.

Tài nguyên số dùng chung chưa hoàn thiện, chất lượng nhiều tài nguyên số chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn;

Hạ tầng công nghệ thông tin, trang thiết bị công nghệ thông tin ở các nhà trường, trang thiết bị cho giáo viên, học sinh, đặc biệt những khu vực miền núi, nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống còn nhiều khó khăn;

Cơ sở dữ liệu bước đầu đưa vào khai thác có hiệu quả, tuy nhiên phạm vi dữ liệu số hóa còn hạn chế; chưa triển khai các công cụ, công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu, xây dựng báo cáo, dự báo, ... phục vụ hiệu quả quản lý giáo dục; thách thức trong quản lý, sở hữu, khai thác dữ liệu, thông tin cá nhân.

Nguồn lực đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong giáo dục còn hạn hẹp, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; việc huy động các nguồn lực xã hội chưa thực sự hiệu quả.

Phạm Minh