Y học dự phòng chưa thu hút người học do lương và chế độ đãi ngộ chưa tương xứng

Y học dự phòng chưa thu hút người học do lương và chế độ đãi ngộ chưa tương xứng

08/04/2025 06:41
Khánh Hòa
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong hệ thống y tế, ngành Y học dự phòng chưa thu hút được thí sinh do thời gian đào tạo dài, lương thấp, chế độ đãi ngộ kém.

Y học dự phòng là một chuyên ngành y tế tập trung vào việc phòng ngừa bệnh tật, nâng cao sức khỏe cộng đồng và kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh. Ngành này bao gồm các lĩnh vực như: dịch tễ học, tiêm chủng, quản lý sức khỏe, an toàn thực phẩm, môi trường và phòng chống dịch bệnh, nhằm giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Xã hội chưa có nhận thức đầy đủ về ngành Y học dự phòng

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Đặng Thị Anh Thư - Trưởng Khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế cho biết: "Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế bắt đầu đào tạo ngành Y học dự phòng từ năm 2007. Trong 6 năm học, sinh viên sẽ được giảng dạy các học phần chuyên ngành và thực tập tại phòng thí nghiệm, bệnh viện, cơ sở y tế từ tuyến xã đến tuyến tỉnh để hoàn thành các chuẩn năng lực của một bác sĩ y học dự phòng.

Chương trình đào tạo ngành Y học dự phòng do Khoa Y tế Công cộng phụ trách chính. Hiện tại, khoa có đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên giàu kinh nghiệm, gồm 4 giáo sư, phó giáo sư; 19 tiến sĩ; 19 thạc sĩ và 5 bác sĩ/cử nhân có chuyên môn cao trong lĩnh vực y tế công cộng và y học dự phòng. Nhiều giảng viên của khoa được đào tạo sau đại học tại các trường uy tín trên thế giới.

Ngoài ra, Khoa Y tế công cộng còn có thế mạnh trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực sức khỏe cộng đồng. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ngành Y học dự phòng đã đạt giải cao tại các cuộc thi và hội nghị khoa học trong nước và quốc tế.

Với mạng lưới đối tác quốc tế rộng khắp, sinh viên còn có cơ hội tham gia các chương trình giao lưu, trao đổi sinh viên với các nước Úc, Hoa Kỳ, Thái Lan… Đây là dịp để các em tiếp cận với môi trường học tập và nghiên cứu quốc tế".

Khó khăn lớn nhất trong việc thu hút sinh viên theo học ngành Y học Dự phòng xuất phát từ nhận thức xã hội còn hạn chế về vai trò và tầm quan trọng của lĩnh vực này..jpg

Chia sẻ về những khó khăn trong đào tạo và tuyển sinh ngành Y học dự phòng, Tiến sĩ Đặng Thị Anh Thư cho biết, khó khăn lớn nhất là nhận thức của xã hội về ngành học này còn hạn chế. Nhiều phụ huynh, học sinh chưa thực sự hiểu rõ về ngành, dẫn đến sự "e dè" trong lựa chọn. Thực tế cho thấy, nhiều sinh viên chỉ chuyển sang học ngành Y học dự phòng khi không đủ điểm vào các ngành khác. Điều này cho thấy ngành học này không phải lựa chọn ưu tiên của các thí sinh giỏi và đặt ra thách thức trong việc thu hút nhân lực chất lượng cao.

Không chỉ vậy, cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp còn nhiều bất cập. Trong hệ thống y tế, nhận thức chung về tầm quan trọng của ngành Y học dự phòng vẫn còn hạn chế. Một số đơn vị y tế thường ưu tiên tuyển dụng bác sĩ đa khoa hơn, do lo ngại về những hạn chế trong phạm vi hoạt động cũng như năng lực chẩn đoán và điều trị bệnh của bác sĩ y học dự phòng.

Hệ thống văn bản pháp quy chưa có quy định rõ ràng và thống nhất khiến ngành Y học dự phòng phải đối mặt với nhiều ý kiến trái chiều. Dù chuẩn năng lực bác sĩ y học dự phòng đã được công bố, nhưng việc thiếu chuẩn chương trình đào tạo khiến công tác giảng dạy và định hướng nghề nghiệp cho sinh viên gặp nhiều khó khăn.

Trước thực trạng đó, Thông tư số 32/2023/TT-BYT của Bộ Y tế quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã làm rõ hơn về phạm vi hành nghề của bác sĩ y học dự phòng. Đây được xem là một bước tiến quan trọng, góp phần tháo gỡ vướng mắc, mang lại lợi ích cho cả các cơ sở đào tạo và sinh viên theo học ngành này.

Ngoài ra, dù có thời gian học tương đương với bác sĩ lâm sàng, nhưng mức lương và chính sách đãi ngộ dành cho ngành Y học dự phòng lại thấp hơn đáng kể. Đây cũng là một trong những lý do khiến ngành học kém hấp dẫn, làm giảm động lực của người học và gây khó khăn trong việc thu hút nhân lực chất lượng cao.

"Việc ít thí sinh theo học ngành Y học dự phòng chắc chắn sẽ dẫn đến thiếu hụt nguồn nhân lực trong thời gian tới. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho hệ thống y tế, đặc biệt trong vấn đề dự phòng bệnh tật", vị trưởng khoa bày tỏ.

Cùng bàn về ngành học này, Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Văn Thành, hiện đang công tác tại Trung tâm nghiên cứu đào tạo và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng - Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội chia sẻ: "Trong quá trình học ngành Y học dự phòng, tôi đã tích lũy được kiến thức toàn diện về dịch tễ học, y tế công cộng, quản lý sức khỏe, tiêm chủng và phòng chống dịch bệnh.

Ngoài kiến thức lý thuyết, chương trình học cũng chú trọng đến kỹ năng thực hành như: điều tra dịch tễ, đánh giá nguy cơ sức khỏe cộng đồng, lập kế hoạch can thiệp. Điều này giúp tôi vận dụng tốt vào thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh phòng chống dịch bệnh, quản lý sức khỏe nghề nghiệp và nâng cao sức khỏe cộng đồng".

Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành - Bác sĩ Trung tâm nghiên cứu đào tạo và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng - Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng,.jpg
Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Văn Thành (áo trắng) hiện đang công tác tại Trung tâm nghiên cứu đào tạo và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng - Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội. (Ảnh: NVCC).

Theo Bác sĩ Nguyễn Văn Thành, sau khi tốt nghiệp sinh viên có thể làm tại các bệnh viện, trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC), viện nghiên cứu, tổ chức y tế quốc tế hoặc làm trong lĩnh vực quản lý sức khỏe doanh nghiệp... Tuy nhiên, để có công việc tốt với mức thu nhập xứng đáng, sinh viên cần chủ động trang bị thêm các kỹ năng mềm, kĩ năng nghiên cứu, khả năng ngoại ngữ và kinh nghiệm thực tế.

Ngành Y học dự phòng có cơ hội thăng tiến, tuy nhiên lộ trình sẽ chậm hơn so với một số chuyên ngành khác trong y khoa. Để đạt được vị trí cao, cần phải có thời gian công tác dài và kinh nghiệm quản lý.

Về mức lương, thu nhập trong ngành này vẫn còn thấp so với công sức và trách nhiệm của bác sĩ. Nếu muốn nâng cao thu nhập cần có thêm chuyên môn về quản lý y tế, nghiên cứu khoa học hoặc làm việc tại các tổ chức quốc tế.

Tăng cường nhận thức xã hội và cải thiện đãi ngộ để giữ chân nhân lực ngành Y học dự phòng

Theo Tiến sĩ Đặng Thị Anh Thư, bác sĩ học dự phòng có cơ hội nghề nghiệp khá rộng mở, không chỉ giới hạn trong hệ thống y tế dự phòng của nhà nước, mà còn có thể làm việc tại các cơ quan tư nhân, tổ chức phi chính phủ và các lĩnh vực liên quan đến sức khỏe như: Trung tâm kiểm soát bệnh tật; Khoa Y tế công cộng hoặc tương đương ở Trung tâm y tế, trạm y tế; các trường đại học, cao đẳng, trung cấp về y; viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu sức khỏe trong nước và quốc tế...

Để thu hút thí sinh theo học ngành này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học, cơ quan y tế, cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo ra môi trường đào tạo và làm việc hấp dẫn, mang lại giá trị cao cho người học và người làm nghề.

Trước hết, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm thống nhất, ban hành chuẩn chương trình đào tạo bác sĩ y học dự phòng để làm cơ sở thống nhất chương trình đào tạo và đánh giá năng lực.

Công tác tuyển dụng theo vị trí việc làm cần được thực hiện phù hợp, đảm bảo đầu ra cho sinh viên. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ học bổng, miễn giảm học phí, cam kết làm việc lâu dài, góp phần thu hút người học và đảm bảo nguồn nhân lực gắn bó với ngành trong tương lai.

Chế độ đãi ngộ cũng cần được cải thiện, bao gồm tăng lương, phụ cấp và các chế độ ưu tiên, đặc biệt đối với đội ngũ công tác tại tuyến y tế cơ sở. Đồng thời, cần tạo điều kiện để bác sĩ y học dự phòng đảm nhận các vị trí quản lý và chuyên môn cao trong công việc.

Cuối cùng, cần tôn vinh và đề cao vai trò của bác sĩ y học dự phòng trong hệ thống y tế, thông qua các chương trình tuyên dương, khen thưởng và diễn đàn chuyên môn. Điều này không chỉ giúp nâng cao nhận thức xã hội mà còn tạo động lực để đội ngũ y tế dự phòng cống hiến lâu dài cho công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Về phía các trường đại học, cần cải tiến chương trình giảng dạy, đáp ứng nhu cầu thực tế của hệ thống y tế và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Song song đó, việc ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và quản lý dữ liệu y tế vào giảng dạy sẽ giúp sinh viên tiếp cận với những công cụ tiên tiến, nâng cao năng lực chuyên môn.

Bên cạnh chất lượng đào tạo, công tác truyền thông hướng nghiệp cũng được đẩy mạnh. Nhà trường nên tổ chức thêm các buổi tư vấn tại trường trung học phổ thông để giúp học sinh, phụ huynh hiểu rõ hơn về vai trò của ngành Y học dự phòng trong hệ thống y tế.

Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao chất lượng nhân lực ngành Y học dự phòng mà còn góp phần thay đổi nhận thức xã hội, thu hút nhiều sinh viên giỏi lựa chọn và gắn bó lâu dài với ngành.

Nội dung đoạn văn bản của bạn (1).jpg

Đồng quan điểm, Bác sĩ Nguyễn Văn Thành cho rằng, để nâng cao nhận thức và thu hút nhân lực cho ngành Y học dự phòng, cần đẩy mạnh nhiều giải pháp đồng bộ. Trước hết, việc tăng cường truyền thông về vai trò quan trọng của ngành trong hệ thống y tế là điều cần thiết, giúp xã hội hiểu rõ tiềm năng và cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực này.

Cùng với đó, cần mở rộng cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên ngay từ khi còn học, thông qua việc kết nối với các trung tâm y tế dự phòng, viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế. Điều này vừa giúp sinh viên có kinh nghiệm thực tiễn vừa tạo cơ hội nghề nghiệp vững chắc sau khi tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ hiện đại trong đào tạo cũng là một hướng đi quan trọng. Việc sử dụng mô phỏng dịch tễ học trên máy tính, học trực tuyến với chuyên gia quốc tế, thực hành trên các hệ thống dữ liệu y tế thực tế sẽ giúp sinh viên tiếp cận với những phương pháp giảng dạy tiên tiến, nâng cao năng lực chuyên môn và khả năng ứng dụng.

Ngành Y học dự phòng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống y tế mà còn mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp hấp dẫn cho những ai đam mê y tế cộng đồng. Vì vậy, cần có sự phối hợp giữa nhà trường, cơ quan y tế và xã hội để phát triển ngành này một cách bền vững.

Chia sẻ về quá trình học, chị Phạm Thị Thu Hà, hiện là sinh viên năm cuối, ngành Y học dự phòng, Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế cho biết: “Ban đầu, tôi dự định theo đuổi một ngành học khác. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu kỹ, tôi nhận thấy Y học dự phòng là một lĩnh vực đầy tiềm năng và có vai trò quan trọng trong công tác phòng bệnh.

Tại nhiều quốc gia, bác sĩ y học dự phòng được đánh giá cao và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống y tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam, ngành học này vẫn chưa nhận được sự đầu tư tương xứng. Nhận thức được thực trạng đó, tôi quyết định theo đuổi ngành Y học dự phòng với mong muốn góp phần vào công tác phòng bệnh, nâng cao sức khỏe cộng đồng, thay đổi nhận thức xã hội.

Chương trình đào tạo ngành Y học dự phòng kéo dài 6 năm, tương tự ngành Y khoa, với các môn học khá tương đồng. Tuy nhiên, khi thực hành tại các khoa như khoa Nội, Ngoại, Sản, Nhi… ngành Y học dự phòng sẽ có thời gian thực hành lâm sàng ít hơn so với ngành Y khoa.

Năm học thứ 5, thứ 6, chương trình học tập trung chủ yếu vào các môn chuyên ngành để sinh viên hiểu sâu hơn về công tác y tế dự phòng. Vì vậy, khối lượng kiến thức cần tiếp thu khá nặng, đòi hỏi sự tập trung cao cũng như khả năng áp dụng linh hoạt vào thực tế”.

Thiết kế chưa có tên.jpg
Chị Thu Hà trong một số hoạt động tại Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế. (Ảnh: NVCC).

Chị Thu Hà cho rằng, chương trình đào tạo hiện tại nhìn chung khá hoàn chỉnh, sinh viên được tiếp cận với các môn học chuyên ngành về dịch tễ học, phương pháp nghiên cứu khoa học ngay từ rất sớm. Đây là môn học quan trọng đối với sinh viên ngành Y học dự phòng, thậm chí được xem là thế mạnh so với ngành Y khoa. Điều này sẽ giúp sinh viên có nền tảng vững chắc, làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học ngay từ đầu, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các đề tài và ứng dụng vào thực tiễn.

“Đối với những bạn có ý định gắn bó với ngành Y học dự phòng, việc nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức và kỹ năng là điều cần thiết. Đây là lĩnh vực đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về dịch tễ học, y tế công cộng, quản lý sức khỏe và phòng chống dịch bệnh, đồng thời yêu cầu khả năng nghiên cứu và phân tích dữ liệu để đưa ra các giải pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Hiện tại, ngành học này vẫn có nhiều triển vọng, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh và các vấn đề sức khỏe cộng đồng ngày càng được quan tâm. Nhu cầu về đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực này rất lớn, từ hệ thống y tế công đến các tổ chức phi chính phủ và các dự án y tế quốc tế.

Với những bạn đang có ý định theo đuổi ngành Y học dự phòng, không cần quá lo lắng về cơ hội việc làm, mà cần chuẩn bị tốt về chuyên môn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thực tiễn", chị Thu Hà nhấn mạnh.

Mức lương chưa phản ánh đúng giá trị của ngành Y học dự phòng

Còn theo anh Lê Xuân Quang, cựu sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội, hiện đang công tác tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Thanh Hóa chia sẻ: “Sau khi tốt nghiệp ngành Y học dự phòng, sinh viên có thể làm nhiều công việc khác nhau như: tham gia vào công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, lập kế hoạch hoạt động và việc làm tại các khoa phòng chuyên trách, hệ thống điều trị tại bệnh viện… Điều này cho thấy, bác sĩ y học dự phòng có thể đảm nhận nhiều vị trí quan trọng, không chỉ bó hẹp trong một vai trò cố định.

Tuy nhiên, dù thời gian đào tạo khá dài (6 năm), nhưng mức lương và chế độ đãi ngộ hiện nay chưa phản ánh đúng giá trị của ngành Y học dự phòng. Thực tế cho thấy, các ngành học yêu cầu 6 năm hoàn thành chương trình đào tạo như ngành Y học dự phòng, thường đối mặt với thách thức khi gia nhập thị trường lao động. Sinh viên tốt nghiệp ở độ tuổi khoảng 24 – 25, có thể gặp nhiều khó khăn hơn khi cạnh tranh với những người học 4 năm tốt nghiệp. Hơn nữa, việc hoàn thành chương trình học kéo dài cũng làm giảm sự linh hoạt và cơ hội thăng tiến nhanh chóng trong sự nghiệp”.

Khánh Hòa