Từ 2008 đến nay, tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư có thay đổi ra sao?

Từ 2008 đến nay, tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư có thay đổi ra sao?

15/03/2025 06:32
Ngọc Mai
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Qua từng giai đoạn, quy định về tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư có nhiều thay đổi nhằm nâng cao chất lượng ứng viên.

Tiêu chuẩn xét chức danh giáo sư, phó giáo sư không chỉ là thước đo năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu mà còn phản ánh định hướng phát triển của nền khoa học, giáo dục quốc gia.

Trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng học thuật, theo thời gian, Việt Nam đã có những điều chỉnh quan trọng trong quy định tiêu chuẩn xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư nhằm tiệm cận với thông lệ quốc tế và nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức.

Tại Việt Nam, công tác xét tiêu chuẩn, công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư bắt đầu từ năm 1976 (theo Quyết định số 162-CP ngày 11/9/1976 của Hội đồng Chính phủ).

Sau đó, các quy định tiêu chuẩn xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư có những sửa đổi, thay thế qua các văn bản như: Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2001/NĐ-CP "Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức danh giáo sư, phó giáo sư"

Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg ngày ngày 27/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư" ban hành kèm theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ.

Đến năm 2018, Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Và năm 2020, ban hành Quyết định số 25/2020/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Hiện tại, công tác xét tiêu chuẩn, công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư thực hiện theo Quyết định số 37 và Quyết định số 25. Nhiều chuyên gia cho rằng, so với những quy định trước đó, Quyết định số 37 với những tiêu chuẩn cao hơn, chặt chẽ hơn đã góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng ứng viên giáo sư, phó giáo sư.

Theo quy định, ứng viên đăng ký xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư ngoài đảm bảo các tiêu chuẩn chung thì đều phải đáp ứng các tiêu chuẩn riêng.

Qua từng giai đoạn, quy định về các tiêu chuẩn chung của chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng có sự thay đổi nhất định.

Tiêu chuẩn chức danh giáo sư.png

So với trước đây, Quyết định số 37 quy định ứng viên thực hiện đủ số giờ chuẩn giảng dạy, trong đó có ít nhất 1/2 số giờ chuẩn giảng dạy trực tiếp trên lớp. Giảng viên thỉnh giảng phải thực hiện ít nhất 50% định mức giờ chuẩn giảng dạy; người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học nhận xét, đánh giá bằng văn bản về các nhiệm vụ giao cho giảng viên.

Về số công trình khoa học, Quyết định số 37 yêu cầu có đủ số điểm công trình khoa học quy đổi tối thiểu theo quy định (ít nhất 20 điểm đối với chức danh giáo sư; ít nhất 10 điểm đối với chức danh phó giáo sư).

Tương tự, trước đây quy định chỉ yêu cầu sử dụng thành thạo một ngoại ngữ và giao tiếp được bằng tiếng Anh nhưng hiện nay yêu cầu ứng viên sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ và có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.

Bên cạnh những tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn chức danh giáo sư cũng có nhiều cải tiến.

PGS.jpg

Bảng trên cho thấy, trước đây, ngoài đạt tiêu chuẩn chung, ứng viên chức danh phó giáo sư cần đáp ứng các điều kiện khác, như: có ít nhất 6 năm (trong đó có 3 năm cuối liên tục) làm nhiệm vụ giảng dạy từ trình độ đại học trở lên đủ số giờ chuẩn.

Còn theo quy định hiện hành, ứng viên đạt chức danh phó giáo sư cần đáp ứng tiêu chuẩn khác như: có ít nhất 06 năm (trong đó phải có 03 năm cuối liên tục) tham gia đào tạo, bồi dưỡng từ trình độ đại học trở lên tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ; trường hợp ứng viên không đủ 06 năm và ứng viên không đủ số giờ chuẩn giảng dạy quy định thì phải có ít nhất gấp hai lần điểm công trình khoa học quy đổi; có bằng tiến sĩ đủ 03 năm trở lên kể từ ngày ký quyết định cấp bằng tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ.

Theo quy định, điểm khác biệt cơ bản nhất về tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư hiện nay so với trước đây là công bố kết quả nghiên cứu khoa học. Cụ thể, trước đây, tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư quy định ứng viên chủ trì ít nhất hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở/01 đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ/đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên. Trong khi đó, quy định hiện nay có phần khắt khe hơn khi yêu cầu ứng viên là tác giả chính công bố ít nhất 02 bài báo khoa học/bằng độc quyền sáng chế,... Và từ năm 2020, ứng viên là tác giả chính công bố ít nhất 03 bài báo khoa học/bằng độc quyền sáng chế,... chủ trì thực hiện ít nhất 02 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở hoặc 01 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ đã nghiệm thu kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.

Nội dung về hướng dẫn học viên cao học và nghiên cứu sinh cũng có sự khác biệt trong tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư. Cụ thể, quy định hiện nay yêu cầu ứng viên hướng dẫn ít nhất 02 học viên/hướng dẫn chính/phụ ít nhất 01 nghiên cứu sinh thay vì yêu cầu hướng dẫn chính ít nhất 02 học viên/hoặc hướng dẫn chính/phụ 01 nghiên cứu sinh. Bên cạnh đó, Quyết định số 37 còn quy định việc hướng dẫn 01 học viên được thay thế bằng 01 trong số các công trình như: bài báo khoa học, bằng độc quyền sáng chế,...

Điểm công trình khoa học quy đổi cũng có sự khác biệt giữa các quy định. Trong đó, Quyết định số 37 được cho là quy định chi tiết hơn khi nêu rõ số điểm công trình khoa học quy đổi đối với ứng viên thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.

Tương tự tiêu chuẩn chức danh giáo sư cũng có những thay đổi theo từng giai đoạn.

Tiêu chuẩn chức danh giáo sư (1).png

Theo đó, Quyết định số 37 quy định ứng viên giáo sư đã chủ trì/tham gia xây dựng, phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng từ trình độ đại học trở lên hoặc nhiệm vụ khoa học và công nghệ, triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ phù hợp với ngành, chuyên ngành khoa học đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, được hội đồng khoa học do người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học hoặc cơ quan có thẩm quyền thành lập thẩm định và đưa vào sử dụng.

Về công bố kết quả nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn chức danh giáo sư trước đây chỉ yêu cầu ứng viên biên soạn sách được xuất bản, nộp lưu chiểu trước thời điểm hết hạn nộp hồ sơ thay vì yêu cầu là chủ trì biên soạn sách như hiện nay.

Bên cạnh đó, quy định trước đây cũng chỉ yêu cầu ứng viên chủ trì ít nhất 01 đề tài nghiên cứu cấp bộ/cấp cao hơn đã nghiệm thu. Còn hiện nay quy định ứng viên chủ trì thực hiện ít nhất 02 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ hoặc 01 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đã nghiệm thu.

Về hướng dẫn nghiên cứu sinh, trước đây quy định chỉ yêu cầu ứng viên hướng dẫn chính ít nhất 02 nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án. Nhưng theo quy định hiện hành thì yêu cầu ứng viên là hướng dẫn chính ít nhất 02 nghiên cứu sinh được cấp bằng tiến sĩ.

Tiêu chuẩn chức danh giáo sư cũng có thay đổi về điểm công trình khoa học quy đổi. Cụ thể, quy định trước đây chỉ yêu cầu ứng viên chức danh giáo sư đạt tiêu chuẩn chung. Có đủ số công trình khoa học quy đổi, trong đó có ít nhất 50% số công trình khoa học quy đổi từ các bài báo khoa học và 25% số công trình khoa học quy đổi được thực hiện trong ba năm cuối tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ.

Trong khi đó, Quyết định số 37 yêu cầu điểm công trình khoa học quy đổi ít nhất là 20 điểm, trong đó quy định rõ điểm công trình khoa học quy đổi đối với ứng viên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Theo chia sẻ của một số chuyên gia giáo dục, tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư trong Quyết định số 37 có phần hợp lí hơn so với các qui định trước, nhưng vẫn còn rất khác và phức tạp hơn so với các chuẩn mực ở nước ngoài, nhất là về cách tính điểm bài báo khoa học, sách chuyên khảo,...

Ngọc Mai