Đào tạo nhân lực người dân tộc thiểu số đạt nhiều kết quả, song vẫn còn hạn chế

20/12/2024 08:59
Tường San
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Trước những chính sách từ Đảng, Nhà nước, công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng người dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả đáng kể.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, dân số các dân tộc thiểu số của nước ta đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, trong độ tuổi lao động dồi dào. Cụ thể, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) đạt 64,95%, cao gấp gần 2 lần nhóm tuổi phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 64 tuổi) là 35,05%. Tỷ lệ dân số là nam giới cao hơn không đáng kể so với nữ giới, tương ứng là 50,1% so với 49,9%.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người dân tộc thiểu số cao (với 83,3% trong tổng dân số dân tộc thiểu số nhưng chất lượng việc làm còn thấp, phần lớn lao động làm nghề giản đơn và trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản (chưa đến 40% có việc làm được trả lương với khoảng 73% làm trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản).

Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm

Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số đã có sự quan tâm đặc biệt của của Đảng, Nhà nước.

Cụ thể, các chủ trương, chính sách đối với người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục và đào tạo, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Ngoài chính sách của Nhà nước có tính ổn định, còn có các chương trình, đề án, dự án về phát triển giáo dục vùng khó khăn.

Đặc biệt, các tổ chức, cá nhân đều ưu tiên hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến đáng kể: hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng, đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm.

vụ dt 4.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Website Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Không những vậy, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông hằng năm tăng rõ rệt. Hệ thống giáo dục chuyên biệt (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học) ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Chế độ cử tuyển đã góp phần đáng kể trong việc đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số có trình độ ở địa phương.

Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và người học là người dân tộc thiểu số được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sự bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và ổn định an ninh chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhờ những chính sách hỗ trợ ấy, tình hình phát triển các cơ sở giáo dục gắn với phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Đơn cử, năm học 2021-2022, tỷ lệ chung học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số tốt nghiệp trung học phổ thông gần tương đương so với tỷ lệ chung toàn quốc (thấp hơn 0,24%). Đội ngũ giáo viên cấp trung học phổ thông về cơ bản đủ về số lượng và đạt chuẩn trình độ đào tạo, đáp ứng được yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn của các tỉnh thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi khá cao, có cấp học 100% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo, ...

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số được lựa chọn từ các nhà giáo có trình độ chuyên môn phù hợp. Về cơ bản, đội ngũ giáo viên ngày càng đáp ứng được nhu cầu giảng dạy theo yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.

Tuy nhiên, vẫn còn giáo viên hạn chế về khả năng sử dụng tiếng dân tộc thiểu số, ngoại ngữ, tin học và am hiểu phong tục tập quán của đồng bào nên có ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy.

Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ, đặc biệt là giáo viên dạy môn Tin học, Ngoại ngữ là thực trạng chung của nhiều địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ giáo viên là người địa phương và người dân tộc thiểu số còn thấp. Việc điều động, luân chuyển giáo viên ở một số địa phương còn chưa thực sự hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc bố trí giáo viên và chất lượng giáo dục của các nhà trường.

Học sinh dân tộc thiểu số chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực doanh nghiệp

Về thực trạng, định hướng học tập và xu hướng nghề nghiệp của học sinh người dân tộc thiểu số, theo thống kê từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, phần lớn là chọn học đại học (86.2%), cao đẳng và trung cấp thấp hơn. Có một số lựa chọn sẽ học ở trình độ sau đại học (thạc sĩ và tiến sĩ), chiếm khoảng 20-25%.

Về định hướng nghề nghiệp, có khoảng gần 50% có xu hướng và định hướng làm việc trong khu vực nhà nước, làm tự do khoảng 20% và chưa xác định là 15.3%. Xu thế của người học mong muốn làm việc trong khu vực công an, quân đội, giáo viên, y tế và một số lĩnh vực văn hóa phù hợp với địa phương.

a1-tr10-11-qlkn.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Website Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đối với các lĩnh vực doanh nghiệp vẫn chưa có nhiều học sinh quan tâm do thiếu thông tin cũng như định hướng từ các nhà trường vì hầu hết các học sinh đều đang sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nơi mà khu vực kinh tế chưa phát triển các loại hình doanh nghiệp tại địa phương.

Về giáo dục đại học, theo thống kê từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện số cơ sở giáo dục đại học ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1/3 so với số lượng cơ sở giáo dục đại học trên toàn quốc (khoảng 32% trong tổng 242 cơ sở đào tạo giáo dục đại học).

Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Công tác quản lý đào tạo có bước chuyển biến tích cực. Chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học được nâng lên theo từng năm học.

Một số cơ sở giáo dục đại học ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang phát triển theo hướng đa ngành; đào tạo nhiều cấp trình độ từ trình độ cao đẳng đến tiến sĩ. Trong khi đó, một số trường đã và đang khẳng định được vị trí, uy tín trong các lĩnh vực đào tạo thế mạnh và là trung tâm đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, các chuyên gia đầu ngành ở trình độ cao, với chất lượng tin cậy. Các cơ sở giáo dục đại học đã cơ bản đáp ứng tốt việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số trong các nhóm ngành tại các cơ sở giáo dục đại học, theo thống kê, năm 2022 cả nước có 2.145.426 sinh viên đại học, trong đó có 125.414 sinh viên là người dân tộc thiểu số (chiếm tỷ lệ 5,84%). Tổng số sinh viên đại học toàn quốc tốt nghiệp là 245.137 sinh viên, trong đó, số sinh viên đại học người dân tộc thiểu số tốt nghiệp là 14.722 sinh viên (chiếm tỷ lệ 6,0%).

Số lượng sinh viên, học viên sau đại học ngày càng tăng, góp phần đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý phát triển cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu ngày càng hợp lý. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh người dân tộc thiểu số còn thấp so với tỷ lệ chung của cả nước.

Cụ thể, năm học 2021-2022, tổng số nhà giáo (cán bộ quản lý, giảng viên) trong các cơ sở giáo dục đại học toàn quốc là 79.041 người (trong đó 851 cán bộ quản lý; giảng viên 78.190 người). Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tổng số giảng viên người dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục đại học là 1.027 người (chiếm tỷ lệ 1,3%).

Còn nhiều khó khăn trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số

Tuy nhiên, tình hình đội ngũ nhà giáo người dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ cấu đội ngũ nhà giáo còn mất cân đối giữa các môn học trong cùng một cấp học, giữa các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.

Tình trạng thừa, thiếu giáo viên còn diễn ra phổ biến tại nhiều địa phương, nhất là giáo viên dạy các môn học mới (các môn tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc, Mỹ thuật), nhưng chậm được khắc phục; chỉ tiêu phân bổ giáo viên cho các địa phương đa số thấp hơn so với nhu cầu thực tế.

Một số chính sách, cơ chế tài chính đối với giáo dục và đào tạo hỗ trợ phát triển giáo dục cho người dân tộc thiểu số chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Nguồn lực các địa phương còn hạn chế ảnh hưởng tới việc đảm bảo tài chính cho giáo dục.

Nguồn lực thu hút đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng với tiềm năng; mức độ huy động nguồn lực giữa các vùng, miền và giữa địa phương khác nhau. Một số địa phương, ngành giáo dục chưa được tham gia quản lý nguồn lực đầu tư cho giáo dục, sự phối hợp giữa các ngành chưa chặt chẽ nên có nơi việc đầu tư chưa hiệu quả.

Nguyên nhân xảy ra những ra những khó khăn trên một phần do thói quen và tập tục văn hóa của người dân tộc thiểu số có thể ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, chậm thay đổi trong cách thức sản xuất và sinh sống, ảnh hưởng đến khả năng thích nghi với sự phát triển của xã hội.

Hơn nữa, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là những vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của cộng đồng dân tộc thiểu số.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động dân tộc thiểu số vẫn còn thấp, điều này dẫn đến việc không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Việc hạn chế trong khả năng tiếp cận và vận dụng công nghệ thông tin tạo ra rào cản trong việc tham gia vào nền kinh tế số hiện nay.

Quy mô nguồn nhân lực chất lượng cao là người dân tộc thiểu số còn thiếu hụt, điều này ảnh hưởng đến khả năng phát triển bền vững của cộng đồng. Kinh phí hỗ trợ ăn, ở cho học sinh bán trú được cấp phát chậm, chế độ hỗ trợ cho sinh viên dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cận nghèo còn thấp.

Về cơ sở vật chất, nhiều trường phổ thông dân tộc nội trú thiếu phòng học, phòng nội trú và các phòng chức năng khác; nhiều trường thiếu khuôn viên, sân chơi bãi tập, các phòng học bộ môn, nhà tập đa năng, thư viện, công trình phụ trợ,… Chất lượng bồi dưỡng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo của các trường giáo dục đại học. Công tác tuyển sinh của các trường, khoa còn gặp khó khăn, chất lượng tuyển sinh chưa đồng đều giữa các trường, có nơi đầu vào còn thấp.

Không những vậy, công tác tổ chức, nhân sự còn mất cân đối giữa các nhà trường đặc biệt là tỷ lệ số học sinh/số giáo viên còn bất cập.

Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên chưa được quan tâm thỏa đáng về số lượng và điều kiện làm việc. Đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm làm cả hai nhiệm vụ giáo dục và quản lý học sinh. Đội ngũ cán bộ quản lý ít, trong khi nhiệm vụ các loại hình trường này đa dạng, phức tạp gồm cả quản lý dạy học ban ngày và nội trú vào buổi tối. Đội ngũ chăm sóc, nuôi dưỡng nội trú, y tế… hiện số vị trí việc làm ít, số học sinh tăng lên, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ, lương, cơ chế tuyển dụng rất hạn chế.

Nhận thức và nhu cầu học tập của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chưa cao. Kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số chậm phát triển, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, thu nhập thấp, đời sống khó khăn ảnh hưởng đến động cơ học tập của dân tộc thiểu số. Một số sinh viên vì hoàn cảnh gia đình (lập gia đình, kinh tế khó khăn,…) không thể tiếp tục theo học

Việc tiếp cận với giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, còn gặp nhiều khó khăn do rào cản ngôn ngữ, văn hóa và khoảng cách địa lý. Một số trường thiếu nhân lực chất lượng cao để giảng dạy, hướng dẫn các chương trình đặc thù cho sinh viên dân tộc thiểu số.

Phương thức tuyển sinh vào các trường còn bất cập. Đơn cử, việc xét tuyển sớm đối với nhiều học sinh dân tộc thiểu số không có cơ hội tiếp cận do phải đi xa đến các trung tâm, mặc dù nhiều cơ sở giáo dục giáo dục đại học đã về đến các địa phương để thực hiện phương thức này.

Chỉ tiêu biên chế, nhu cầu vị trí việc làm tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp gần như bão hòa, do đó việc giải quyết, bố trí việc làm cho sinh viên dân tộc thiểu số sau tốt nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong quá trình thực hiện công tác cử tuyển, nhiều địa phương không bố trí được việc làm cho người học cử tuyển sau khi tốt nghiệp, chưa có giải pháp cương quyết trong việc bồi hoàn kinh phí đào tạo.

Trên thực tế, công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông cũng chưa được các cấp chính quyền vùng đồng bào dân tộc thiểu số quan tâm đúng mức.

Chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn còn thấp. Tỷ lệ huy động học sinh dân tộc thiểu số đi học đúng độ tuổi các cấp học từ mầm non đến phổ thông còn thấp so với mặt bằng chung cả nước.

Không những vậy, tỷ lệ học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo cao, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nên việc duy trì sự chuyên cần và sĩ số học sinh trong các cơ sở giáo dục gặp nhiều khó khăn.

Số lượng sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh người dân tộc thiểu số còn ít. Việc đảm bảo sĩ số và tiếp cận giáo dục từ các cấp bậc học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở giúp tạo tiền đề vững chắc để đảm bảo số lượng con em người dân tộc thiểu số có cơ hội học tập cao hơn như trung học phổ thông, cao đẳng, đại học.

Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các cơ sở giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số mặc dù đã được quan tâm đầu tư, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, vẫn còn phòng học nhờ, phòng học tạm, thiếu các phòng chức năng, thiết bị dạy học tối thiểu làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, đặc biệt là việc thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

Rà soát, hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số

Trên thực tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thành các văn bản chính sách đối với người dân tộc thiểu số.

Đơn cử như, các chính sách đối với học sinh: quy định về học bổng, chính sách hỗ trợ học tập, chính sách miễn giảm học phí; hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số rất ít người; quy định về cử tuyển; Cộng điểm ưu tiên khi xét tốt nghiệp trung học phổ thông; tuyển thẳng vào đại học, cộng điểm ưu tiên trong tuyển sinh; Chính sách đối với phát triển quy mô, mạng lưới trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số và miền núi (Trường phổ thông dân tộc nội trú; trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; Chính sách về dạy tiếng nói chữ viết dân tộc thiểu số cho học sinh.

Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số, cần thực hiện rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số.

Đặc biệt, đối với các ngành/nhóm ngành/lĩnh vực Sức khỏe (chủ yếu là Y khoa và Dược học), Công nghệ thông tin, Tài chính – Ngân hàng, Nông nghiệp, đào tạo giáo viên, cần xây dựng, quản lý, phát triển chương trình đào tạo người dân tộc thiểu số trình độ đại học trở lên. Đồng thời, thu hút, sử dụng nguồn nhân lực, tạo việc làm cho sinh viên người dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp.

vụ dt 2.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Website Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Ngoài ra, cần nâng cao năng lực cho các cơ sở đào tạo đại học và các bên liên quan có tham gia vào quá trình đào tạo các ngành, nhất là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giảng viên tham gia chương trình đào tạo người dân tộc thiểu số trình độ đại học trở lên; Hỗ trợ học sinh phổ thông dân tộc nội trú được định hướng, tạo nguồn theo học các ngành, lĩnh vực các ngành, lĩnh vực; hỗ trợ sinh viên người dân tộc thiểu số học tập trong các lĩnh vực nêu trên.

Trước tình hình thực tế còn nhiều khó khăn, thách thức nêu trên, vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Tọa đàm tham vấn với các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia lĩnh vực liên quan đến nội dung của Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số trong các ngành/nhóm ngành/lĩnh vực: Sức khỏe, Công nghệ thông tin, Nông nghiệp, Tài chính - Ngân hàng, đào tạo giáo viên”.

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đề án này sẽ tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức tham gia trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho học sinh, sinh viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Đồng thời, Đề án sẽ xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết để các cơ sở giáo dục đại học, các địa phương và các tổ chức liên quan tại địa phương có cơ sở pháp lý và nguồn kinh phí để cùng phối hợp tổ chức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; tạo môi trường đề xuất chính sách trợ giúp đào tạo và phát triển nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số cho cả nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng. Đề án cũng phát huy và tận dụng thế mạnh của chuyển đổi số trong quá trình triển khai thực hiện các nội dung.

Đặc biệt, nếu được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thường trực trong quá trình xây dựng Đề án, chủ trì phối hợp với Ủy ban Dân tộc xây dựng chương trình kế hoạch triển khai các nội dung của Đề án theo từng giai đoạn và phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất ban hành mới; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cần thiết để hoàn thiện cơ chế, chính sách thuộc phạm vi quản lý.

Tường San