Trường phải đi thuê một phần diện tích để đảm bảo yêu cầu
Tìm hiểu của phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về điều kiện cơ sở vật chất của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh qua báo cáo 3 công khai cho thấy, trong tổng diện tích đất cơ sở này quản lý sử dụng và diện tích sàn xây dựng phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học đều có thống kê một phần diện tích được đi "thuê".
Đáng nói, theo các năm học, diện tích đất/sàn đi thuê nói trên của trường đại học này luôn có biến động, không giữ ổn định qua các năm.
Theo đó, tại báo cáo công khai về cơ sở vật chất của năm học 2018 - 2019, Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh kê khai, trong tổng diện tích đất trường này quản lý sử dụng là 61.877 m2 thì có 5.260 m2 diện tích đi thuê. Tổng diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học là 22.470 m2 thì có 2.774 m2 diện tích đi thuê.
Tiếp đó, trong năm học 2019 - 2020, tổng diện tích đất nhà trường quản lý sử dụng là 61.887,4 m2 , trong đó diện tích đi thuê là 5.259,5 m2, giảm nhẹ so với năm học trước đó. Tổng diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học là 22.687,8 m2 trong đó có 2.774 m2 đi thuê.
Còn trong năm học 2020 - 2021, số liệu báo cáo cho biết, tổng diện tích đất cơ sở quản lý sử dụng là 61.877 m2 trong đó có 5.259 m2 diện tích đi thuê trong năm học này có giảm nhẹ so với năm học trước đó. Tổng diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học là 24.213 m2 trong đó diện tích đi thuê là 3.853, diện tích này tăng so với năm học trước đó.
Trong năm học 2021 - 2022, tổng diện tích đất nhà trường quản lý sử dụng được thống kê thấp hơn so với năm học liền kề trước đó với 61.560 m2 trong đó diện tích đi thuê là 4.902 m2 cũng giảm xuống so với năm học trước đó.
Tổng diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học đã tăng lên so với năm học liền kề trước đó với 29.956 m2. Trong đó, phần diện tích đi thuê giữ nguyên bằng với năm học trước đó với 3.853 m2.
Năm học | Tổng diện tích quản lý sử dụng (m2) |
Diện tích đi thuê (m2) |
2018 - 2019 | 61.877 | 5.260 |
2019 - 2020 | 61.877 | 5.259,5 |
2020 -2021 | 61.877 | 5.259 |
2021 - 2022 | 61.560 | 4.902 |
Năm học | Tổng diện tích sàn phục vụ đào tạo, NCKH (m2) |
Diện tích đi thuê (m2) |
2018 - 2019 | 22.470 | 2.774 |
2019 - 2020 | 22.687,8 | 2.774 |
2020 -2021 | 24.213 | 3.853 |
2021 - 2022 | 29.956 | 3.853 |
Lý giải về phần diện tích đi thuê được đề cập trong báo cáo ba công khai, Tiến sĩ Trần Văn Phúc - Trưởng phòng Quản lý đào tạo Trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh cho biết, do thời gian vừa qua nhà trường đang trong thời gian xây dựng mới khu phòng học, phòng nghiên cứu tại các cơ sở ở Đà Lạt và Cần Thơ nên buộc phải đi thuê địa điểm để đảm bảo việc học tập của sinh viên.
"Trong năm học này chúng tôi đã hoàn thành các công trình ở cơ sở Đà Lạt và Cần Thơ nên không còn phải đi thuê nữa", thầy Phúc khẳng định.
Phóng viên đề cập, liệu việc đi thuê địa điểm như vậy có đảm bảo các yêu cầu dạy học hay không? Việc biến động hàng năm về diện tích đi thuê có tác động gì đến sinh viên hay không?. Về việc này, lãnh đạo Phòng Quản lý đào tạo Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh là không có ảnh hưởng gì.
"Khi đi thuê nhà trường đã có sự khảo sát và chọn những vị trí rộng rãi và đáp ứng được với yêu cầu dạy học và nghiên cứu. Trong đó chú trọng đến yêu cầu về diện tích trên đầu sinh sinh viên, diện tích sàn trên mỗi sinh viên.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã thực hiện việc kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đào tạo và được cấp chứng chỉ. Tất nhiên để được cấp chứng chỉ đó thì tất cả các tiêu chí của nhà trường về số mét vuông phục vụ đào tạo trên mỗi đầu sinh viên", thầy Phúc chia sẻ thêm.
Nhiều năm nhà trường không có báo cáo việc thực hiện dự án nghiên cứu khoa học
Về việc công khai thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, theo tìm hiểu cho thấy, nhiều năm học nhà trường không có báo cáo dữ liệu cụ thể về việc thực hiện hoạt động này.
Cụ thể, theo báo cáo công khai thông tin chất lượng đào tạo thực tế của cơ sở giáo dục năm học 2018 - 2019 cho thấy, năm 2018 trường đại học này thực hiện 3 dự án cấp Bộ - Sở và 34 dự án cấp trường. Năm 2019, trường đại học này thực hiện 24 dự án cấp trường và 1 dự án thuộc Quỹ Nafosted.
Tuy nhiên, theo báo cáo công khai tài chính của năm học này, nguồn thu từ nghiên cứu khoa học lại đang để mức bằng "0".
Tiếp đó, năm học 2019 - 2020, cũng tại báo cáo công khai thông tin chất lượng đào tạo thực tế của cơ sở giáo dục, trường không có dữ liệu về thông tin việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Tại báo cáo tài chính của năm học này, nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học cũng để mức bằng "0".
Còn trong năm học 2020 - 2021, dù trong báo cáo công khai thông tin chất lượng đào tạo thực tế của cơ sở giáo dục, trường không có thông tin về thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, tại báo cáo tài chính, số liệu về nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học thể hiện là 0,4 tỷ đồng.
Trong năm học 2021 - 2022, tại báo cáo ba công khai thông tin chất lượng đào tạo thực tế của trường đại học này cũng không có dữ liệu về việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trong báo cáo tài chính năm học này, Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh ghi số liệu nguồn thu từ nghiên cứu khoa học là 0,3 tỷ đồng.
Về việc này, theo chia sẻ từ lãnh đạo Phòng Quản lý đào tạo Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, nhà trường chủ yếu thực hiện các dự án, đề tài từ các nguồn thuộc cấp Bộ, cấp nhà nước nên nguồn thu hàng năm từ hoạt động còn hạn chế.
Vị này cho rằng, trong báo cáo ba công khai của một số năm có thể có sự nhầm lẫn và chưa được cập nhập kịp thời về nội dung.
"Qua phản ánh của phóng viên nhà trường đã rà soát và đúng là có một số thiếu sót, nhầm lẫn trong báo cáo ba công khai. Hiện chúng tôi cũng đã cho rà soát và sẽ bổ sung lại các thông tin cho đầy đủ. Về cơ bản thì các thông tin trong báo cáo công khai mới cũng đã hoàn chỉnh, cơ bản thì nội dung vẫn giống như cái cũ.
Đặc thù của các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kiến trúc là phát triển theo hướng ứng dụng nhiều hơn là nghiên cứu đơn thuần. Tất nhiên cũng có thực hiện việc nghiên cứu khoa học, tuy nhiên nó không mạnh như các khối khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nên việc thực hiện các đề tài cũng chỉ ở một mức nhất định nào đó", thầy Phúc thông tin.
Theo ghi nhận của phóng viên trong ngày 3/3, dữ liệu báo cáo ba công khai trong các năm học 2019 - 2020; 2020 - 2021 và 2021 - 2022 của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được cập nhập, bổ sung. Phóng viên không thấy có thông tin về các dự án nghiên cứu khoa học được trường đại học này thực hiện trong các năm học nói trên.
Tại Điểm i, Khoản 1, Điều 7, Thông tư 36/2017/TT-BGDĐT về Công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng giáo dục thực tế đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm, quy định về công khai Các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất thử và tư vấn như sau:
Tên các dự án hoặc tên nhiệm vụ khoa học công nghệ, người chủ trì và các thành viên tham gia, đối tác trong nước và quốc tế, thời gian và kinh phí thực hiện, tóm tắt sản phẩm của dự án hoặc nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn.
Theo Điểm a, b, Khoản 1 và Điểm b, c Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22/1/2021 quy định mức xử phạt Vi phạm quy định về tổ chức quản lý cơ sở giáo dục với các hành vi: Công khai không đầy đủ các nội dung theo quy định tại quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục và đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các văn bản pháp luật khác có liên quan; Thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng chế độ thông tin báo cáo theo quy định của pháp luật hiện hành; Công khai không chính xác các nội dung theo quy định của pháp luật hiện hành; Không thực hiện công khai theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo Điểm b, c Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 04/2021/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, quy định mức xử phạt Vi phạm quy định về tổ chức quản lý cơ sở giáo dục nêu rõ: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi: Công khai không chính xác các nội dung theo quy định của pháp luật hiện hành.