Điểm mới ở kiểm định CTĐT buộc trường ĐH phải nâng cao trách nhiệm giải trình

15/03/2025 06:31
Tường San
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Nhìn chung, những thay đổi trong Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT là rất tích cực và cần thiết trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay.

Theo chia sẻ từ lãnh đạo, đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT quy định về kiểm định chương trình đào tạo trình độ đại học (Thông tư 04) do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thay thế cho các Thông tư liên quan về kiểm định chương trình đào tạo đại học hiện hành sẽ mang lại nhiều thuận lợi, tạo động lực phát triển cho các trường.

Phù hợp với xu hướng trao quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm giải trình của trường đại học

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Song – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Miền Đông bày tỏ, Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT được ban hành vào thời điểm đầu năm 2025 là một bước đi kịp thời và cần thiết trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao chất lượng đào tạo. Cụ thể, Thông tư 04 đã đáp ứng được nhiều nhu cầu và yếu tố quan trọng.

Trước hết là, hội nhập quốc tế. Thông tư được xây dựng dựa trên bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình đào tạo phiên bản 4.0 của AUN-QA (Tổ chức mạng lưới bảo đảm chất lượng các trường đại học ASEAN), đồng thời phù hợp với thực tiễn giáo dục Việt Nam. Điều này giúp các chương trình đào tạo đại học trong nước tiệm cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận lẫn nhau về chất lượng giữa các quốc gia.

Bên cạnh đó, đáp ứng nhu cầu đổi mới. Việc thay thế các thông tư cũ cho thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận thức rõ những bất cập trong các quy định trước đây, đặc biệt khi giáo dục đại học đang chuyển mình mạnh mẽ với sự phát triển của công nghệ và các hình thức đào tạo đa dạng.

Hơn nữa, Thông tư đã nhấn mạnh vai trò chủ động của các cơ sở đào tạo trong việc tự đánh giá và cải tiến chất lượng, phù hợp với xu hướng trao quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm giải trình của các trường đại học.

Tuy nhiên, để đánh giá đầy đủ hiệu quả của Thông tư 04, cần theo dõi quá trình triển khai thực tế, bởi việc áp dụng một khung kiểm định mới đòi hỏi sự đồng bộ từ các tổ chức kiểm định, cơ sở đào tạo và cả đội ngũ nhân sự liên quan.

banner-off-road.jpg
Sinh viên Trường Đại học Công nghệ Miền Đông. Ảnh: Website Nhà trường.

Thầy Song thông tin thêm, so với các văn bản trước đó, Thông tư 04 đã có nhiều thay đổi lớn.

Một là mở rộng phạm vi và rõ ràng về định nghĩa. Việc mở rộng phạm vi áp dụng cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học, bao gồm cả các trường thuộc các cơ quan nhà nước, là rất hợp lý, giúp đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong công tác kiểm định chất lượng. Việc cung cấp thêm nhiều định nghĩa chi tiết hơn cũng giúp các bên liên quan hiểu rõ và thống nhất về các thuật ngữ chuyên môn, từ đó nâng cao hiệu quả của quy trình kiểm định.

Hai là thay đổi quan trọng về bộ tiêu chuẩn đánh giá mới với 8 tiêu chuẩn và các tiêu chí cụ thể thay cho trước đây là 11 tiêu chuẩn. Việc sáp nhập và hoặc tái cấu trúc để tạo nên một bộ tiêu chuẩn cô đọng hơn khắc phục được sự chồng chéo về tiêu chí khi đánh giá theo các văn bản trước đây. Đơn cử, tiêu chuẩn "Người học và hoạt động hỗ trợ người học" (Tiêu chuẩn 8 trong Thông tư 04 năm 2016) đã được tích hợp vào các tiêu chuẩn khác như "Hoạt động dạy và học" (Tiêu chuẩn 3 trong Thông tư 04 năm 2025) và "Các dịch vụ hỗ trợ người học" (Tiêu chuẩn 6 trong Thông tư 04 năm 2025). Các tiêu chuẩn mới tập trung vào kết quả học tập và mong đợi của các bên liên quan, đặc biệt là doanh nghiệp. Điều này định hướng nâng cao chất lượng theo hướng phát triển năng lực người học, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động

Ba là về phương pháp đánh giá. Thông tư mới chuyển sang phương pháp đánh giá theo hai mức: "đạt" và "không đạt". Cách tiếp cận này tập trung vào việc xác định xem chương trình đào tạo có đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu hay không. Điều này khuyến khích các trường tập trung vào việc đảm bảo chất lượng cốt lõi thay vì chạy theo điểm số. Tuy nhiên, việc chỉ có hai mức đánh giá có thể hạn chế khả năng phân biệt và so sánh giữa các trường và chương trình đào tạo. Với ưu điểm và hạn chế nêu trên là phù hợp với hiện trạng đa số các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đã thực hiện kiểm định đến chu kỳ 2 và có hơn 10 năm kinh nghiệm triển khai hoạt động kiểm định chất lượng đại học.

Bốn là quy trình kiểm định được quy định chặt chẽ, rõ ràng. Thông tư 04 quy định rõ quy trình kiểm định với các bước cụ thể, từ tự đánh giá, đánh giá ngoài đến thẩm định và công nhận. Việc quy định chu kỳ kiểm định 5 năm và 7 năm cũng giúp các trường chủ động trong công tác tự đánh giá và cải tiến chất lượng. Ngoài ra, thông tư còn điều chỉnh các quy định liên quan đến yêu cầu đối với kiểm định viên, trách nhiệm của trưởng đoàn, thư ký đoàn, giám sát đoàn, thực tập viên, thành viên hội đồng kiểm định cho phù hợp với thực tế.

Đồng thời, thông tư cũng đổi mới một số quy định về hình thức đánh giá, số lượng, thành phần của đoàn đánh giá ngoài, các phiên họp hội đồng và việc số hoá minh chứng, phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Năm là tăng cường công tác tự đánh giá. Thông tư 04 cung cấp hướng dẫn chi tiết về quy trình tự đánh giá, thành lập hội đồng, thu thập thông tin, viết báo cáo, từ đó giúp các trường thực hiện công tác tự đánh giá một cách bài bản, khoa học và hiệu quả hơn. Thông tư quy định rõ trách nhiệm của các cơ sở đào tạo trong việc tự đánh giá đạt chuẩn chương trình đào tạo, cam kết bảo đảm chất lượng trong duy trì ngành, nhằm giảm bớt các công việc mang tính “hành chính” để kiểm định viên tập trung vào tư vấn và hỗ trợ. Bên cạnh đó, quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo và việc phối hợp giữa các đơn vị.

Sáu là nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình. Thông tư 04 yêu cầu các trường công khai báo cáo tự đánh giá, báo cáo đánh giá ngoài, kết quả kiểm định, giấy chứng nhận, từ đó giúp tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học.

Bảy là tăng cường tính chủ động cho các tổ chức kiểm định. Căn cứ nội dung quy định của Thông tư này, các tổ chức kiểm định được xây dựng hướng dẫn chuyên môn, phát triển các tài liệu, sổ tay nghiệp vụ chuyên môn dành cho kiểm định viên để triển khai thống nhất. Các quy định mới này vừa phù hợp với nguyên tắc độc lập trong hoạt động kiểm định của các tổ chức kiểm định trong nước (theo Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học hiện hành), vừa giúp các tổ chức kiểm định trong nước đáp ứng các yêu cầu (tiêu chí) của các tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế (như AQAN, EQAR...)

Nhìn chung, những thay đổi trong Thông tư 04 là rất tích cực và cần thiết trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay. Sự thay đổi này giúp nâng cao hiệu quả, tính khoa học và phù hợp với xu thế phát triển chung của công tác kiểm định chất lượng. Những thay đổi này sẽ góp phần thúc đẩy các trường đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.

Cũng theo thầy Song, việc bãi bỏ các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng riêng biệt cho từng hình thức đào tạo (bao gồm các ngành đặc thù và đào tạo từ xa) trong Thông tư 04 để áp dụng một chuẩn thống nhất chung, ban đầu có thể tạo ra một số khó khăn nhất định cho các cơ sở đào tạo do yêu cầu phải chuẩn hóa tất cả các hình thức đào tạo trong cùng một chương trình. Điều này đòi hỏi các trường phải điều chỉnh lại hoạt động quản lý, đảm bảo chất lượng đồng bộ, nhất quán hơn giữa các hình thức đào tạo.

Điểm mới này có thể gây ra khó khăn trong việc chuẩn hóa đánh giá. Bởi, các ngành đặc thù hoặc đào tạo từ xa đôi khi có những yêu cầu riêng biệt về cơ sở vật chất, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập. Khi áp dụng một bộ tiêu chuẩn chung, các cơ sở đào tạo có thể gặp khó khăn trong việc chứng minh rằng chương trình của họ đáp ứng được các yêu cầu chất lượng đặc thù, vốn trước đây được quy định riêng. Điều này đòi hỏi họ phải tự điều chỉnh và cung cấp thêm minh chứng phù hợp....

Tuy nhiên, xét về dài hạn, đây là một sự tiến bộ cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đồng đều, tránh tình trạng chất lượng không đồng nhất giữa các hình thức đào tạo.

Giúp các cơ sở đào tạo có thêm thời gian tập trung vào việc cải tiến chất lượng

Mặt khác, theo thầy Song, những thay đổi như kéo dài chu kỳ kiểm định lên 7 năm, cải tiến và rút gọn các biểu mẫu cũng như bỏ yêu cầu xin ý kiến của Cục Quản lý chất lượng đối với báo cáo tự đánh giá sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực.

Đối với việc kéo dài chu kỳ kiểm định lên 7 năm sẽ giúp giảm tần suất kiểm định. Từ đó, các cơ sở đào tạo có thêm thời gian tập trung vào việc cải tiến chất lượng thay vì chuẩn bị liên tục cho các đợt kiểm định. Chu kỳ 7 năm cũng phù hợp hơn với thực tế triển khai một chương trình đào tạo, cho phép đánh giá hiệu quả lâu dài.

Ngoài ra, điểm mới này cũng khuyến khích các cơ sở chủ động duy trì và cải tiến chất lượng liên tục, thay vì chỉ tập trung vào việc “đối phó” với kiểm định định kỳ. Nó thúc đẩy tính tự chịu trách nhiệm và ý thức xây dựng chất lượng bền vững.

Đối với điểm mới là rút gọn và cải tiến biểu mẫu, việc làm này giúp giảm tải công việc hành chính, tiết kiệm thời gian và nguồn lực cho các cơ sở đào tạo. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các trường có quy mô lớn hoặc nhiều chương trình đào tạo.

Đồng thời, khi các biểu mẫu gọn nhẹ, dễ sử dụng sẽ khuyến khích các cơ sở nghiêm túc thực hiện tự đánh giá một cách minh bạch và hiệu quả, từ đó xây dựng thói quen kiểm định chất lượng như một phần của hoạt động thường xuyên, thay vì chỉ là thủ tục hành chính.

Đối với điểm mới là bỏ yêu cầu xin ý kiến của Cục Quản lý chất lượng đối với báo cáo tự đánh giá, thầy Song cho rằng, việc làm này sẽ loại bỏ bước trung gian này giúp tăng tính tự chủ cho các cơ sở đào tạo, rút ngắn thời gian xử lý và giảm sự phụ thuộc vào cơ quan quản lý. Các trường có thể linh hoạt hơn trong việc lập kế hoạch và triển khai kiểm định.

Đồng thời, đặt trách nhiệm trực tiếp lên vai các cơ sở đào tạo, buộc họ phải nâng cao năng lực tự đánh giá và tính giải trình. Khi không còn “bộ lọc” từ Cục Quản lý chất lượng, các trường sẽ phải tự chịu trách nhiệm cao hơn về chất lượng báo cáo, từ đó xây dựng một văn hóa kiểm định dựa trên sự minh bạch và chủ động.

Để Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT được triển khai hiệu quả, thầy Song cũng đưa ra một số đề xuất, kiến nghị.

Thứ nhất, tăng cường tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật. Bộ Giáo dục và Đào tạo và các tổ chức kiểm định cần tổ chức các khóa tập huấn chuyên sâu cho cán bộ của các cơ sở đào tạo về cách áp dụng bộ tiêu chuẩn mới, đặc biệt là trong việc đánh giá các chương trình đào tạo từ xa hoặc ngành đặc thù theo khung chung. Từ đó, giúp giảm bớt khó khăn trong giai đoạn đầu.

Thứ hai, ban hành tài liệu hướng dẫn chi tiết. Dù Thông tư đã cải tiến, cần có thêm phụ lục hoặc tài liệu hướng dẫn cụ thể để các cơ sở hiểu rõ cách diễn giải tiêu chuẩn, tiêu chí trong các bối cảnh khác nhau (chính quy, từ xa, liên kết quốc tế). Điều này đặc biệt quan trọng khi các tiêu chuẩn riêng cho ngành đặc thù đã bị bãi bỏ.

Thứ ba, cần xây dựng hệ thống công nghệ hỗ trợ. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý kiểm định, chẳng hạn như phát triển phần mềm số hóa minh chứng và báo cáo tự đánh giá. Việc làm này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian mà còn tăng tính minh bạch và chính xác trong quy trình.

Tăng cường vai trò của tổ chức kiểm định. Các tổ chức kiểm định cần được trao quyền và hỗ trợ để phát triển các công cụ đánh giá linh hoạt, phù hợp với từng loại hình đào tạo. Đồng thời, cần có cơ chế giám sát để đảm bảo các tổ chức này thực hiện đánh giá ngoài một cách khách quan và nhất quán.

Thứ năm, khuyến khích chia sẻ kinh nghiệm giữa các cơ sở đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể tổ chức các diễn đàn, hội thảo để các trường đại học chia sẻ kinh nghiệm thực hiện Thông tư 04, từ đó tạo ra một cộng đồng học hỏi lẫn nhau, đặc biệt là với những trường còn hạn chế về năng lực kiểm định.

Thứ sáu, theo dõi và đánh giá định kỳ quá trình triển khai. Sau 1-2 năm thực hiện, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức đánh giá tác động của Thông tư 04 để kịp thời điều chỉnh những bất cập, đảm bảo các mục tiêu đề ra (hội nhập, tự chủ, nâng cao chất lượng) được thực hiện hiệu quả.

Giúp cơ sở đào tạo cải tiến và nâng cao chất lượng

Cùng bàn về những điểm mới trên, theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hợp – Trưởng phòng Phòng Đào tạo Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh (Đại học Thái Nguyên), Thông tư 04 đã thực sự tạo động lực cho các cơ sở giáo dục đại học phát triển.

Theo đó, Điều 12 của Thông tư có nêu, đối với chương trình đào tạo được đánh giá đạt ở chu kỳ trước, nếu tiếp tục được đánh giá ở mức đạt với tỷ lệ tiêu chuẩn, tiêu chí đạt cao hơn chu kỳ trước đồng thời kết quả cải tiến chất lượng đáp ứng yêu cầu, cơ bản khắc phục được các điểm yếu đã chỉ ra từ chu kỳ trước thì chu kỳ kiểm định chất lượng tiếp theo là 07 năm. Điểm mới này sẽ tạo động lực rất lớn để các cơ sở đào tạo đẩy mạnh, cải tiến và nâng cao chất lượng để có chu kỳ kiểm định tiếp là 7 năm thay vì 5 năm như hiện nay.

6-929930234.jpg
Sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: Website Nhà trường.

Hơn nữa, với thời gian chu kỳ kiểm định là 7 năm cũng phù hợp hơn với thực tiễn đào tạo. Đơn cử, đối với khối ngành Kinh tế, một khung chương trình với thời gian đào tạo chuẩn cho một khóa học là 4 năm, do đó việc kiểm định trong 5 năm có phần hơi lãng phí.

Đặc biệt, việc bỏ yêu cầu xin ý kiến của Cục Quản lý chất lượng đối với báo cáo tự đánh giá cũng góp phần nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các trường. Khi đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ là cơ quan ban hành và giám sát các tiêu chí quy định.

Thầy Hợp cũng đánh giá cao việc Thông tư 04 đã bãi bỏ các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng riêng biệt cho từng hình thức đào tạo (bao gồm các ngành đặc thù và đào tạo từ xa.

Theo thầy Hợp, khi Quyết định 131/QĐ-TTg của Chính phủ đã hướng đến nâng cao số lượng các trường được tổ chức đào tạo E-learning trong trường và tiến tới hầu hết các trường đều có chương trình từ xa để ứng dụng công nghệ số vào đào tạo. Từ đó giúp người học dù ở bất cứ đâu đều có thể tiếp cận chất lượng giáo dục như nhau.

Cụ thể, theo Quyết định 131, mục tiêu đến năm 2030, giáo dục đại học số trở thành một trụ cột của hệ thống giáo dục đại học, chiếm tỉ trọng 30% quy mô; 100% cơ sở giáo dục đại học cung cấp các chương trình đào tạo (cấp bằng) hình thức từ xa, trực tuyến.

Hơn nữa, chúng ta đã bỏ ghi hình thức đào tạo lên văn bằng, do đó các trường phải có trách nhiệm dù đào tạo ở hình thức nào, chuẩn đầu ra đạt được phải như nhau.

Vậy nên, việc kiểm định theo chương trình đào tạo (kiểm định một lần cho tất cả các hình thức đào tạo) như vậy là đúng theo chủ trương đặt ra. Từ đó, buộc các trường phải nỗ lực để thực hiện được những gì đã cam kết, công bố với xã hội.

Không những vậy, điểm mới này cũng tạo ra sự minh bạch và công bằng giữa tất cả các cơ sở đào tạo; giúp Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm soát được tổng thể các hình thức đào tạo của mỗi trường đại học. Ngoài ra, giúp các cơ sở đào tạo giảm bớt được các thủ tục hành chính, đỡ tốn thời gian, công sức khi phải kiểm định nhiều hình thức đào tạo cho một chương trình.

Tường San