Đối với giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030, số lượng công bố khoa học và công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên 01 giảng viên toàn thời gian đạt 0,6 công trình/năm.
Theo các cơ sở giáo dục đại học, mục tiêu này vừa là thách thức, vừa là động lực để nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học.
Góp phần tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Trà, Phụ trách Phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Học viện Hàng không Việt Nam chia sẻ, chiến lược đặt ra mục tiêu số lượng công bố khoa học và công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên 01 giảng viên toàn thời gian đạt 0,6 công trình/năm là điều cần thiết, mang tính chiến lược, góp phần hiện thực hóa mục tiêu nâng tầm giáo dục.
Điều này tạo động lực thúc đẩy, nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên và vị thế, uy tín của trường, đóng vai trò cốt lõi trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu của một trường đại học.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trên cần tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện của mỗi cơ sở giáo dục. Chiến lược đặt ra mục tiêu số lượng công bố khoa học và công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên 01 giảng viên toàn thời gian đạt 0,6 công trình/năm có thể khiến một số trường gặp khó khăn.
Hiện nay các cơ sở giáo dục đại học nói chung và Học viện Hàng không Việt Nam nói riêng đã có những chính sách để hỗ trợ nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Đây chính là động lực để giảng viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu và gia tăng số lượng công bố.
Mặc dù vậy, con số 0,6 công trình/năm là một thách thức, nhất là khi tải trọng giảng dạy của giảng viên đã rất lớn. Để rút ngắn thời gian đào tạo cho sinh viên, nhiều trường tổ chức đào tạo ba học kỳ mỗi năm, quá trình giảng dạy và thi cử diễn ra liên tục.
Có thể thấy, khi giảng viên phải thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ, đảm bảo cả khối lượng công việc giảng dạy lẫn nghiên cứu là một áp lực lớn. Muốn giải quyết vấn đề này, có thể khuyến khích và tạo điều kiện như việc nâng mức lương. Tuy nhiên, điều này lại đặt ra một bài toán kinh tế, cho nên, việc đạt được con số 0,6 công trình mỗi năm thực sự là một thách thức.
Cũng theo cô Hà, nhà trường là một trường đào tạo theo định hướng ứng dụng. Trước đây, trường chỉ tập trung vào các ngành thuộc lĩnh vực hàng không, hiện nay trường đã và đang phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực.
Vì vậy, cần phải xem tỉ lệ này có phù hợp với thực trạng của từng trường, trường đó đang theo định hướng nghiên cứu hay theo định hướng ứng dụng.
Bên cạnh đó, ngoài việc hướng tới mục tiêu đạt số lượng công bố khoa học và công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên 01 giảng viên toàn thời gian đạt 0,6 công trình/năm, cần phải hướng tới các sản phẩm khoa học công nghệ phải có giá trị. Đẩy các hoạt động khoa học và công nghệ, từ đó góp phần gia tăng nguồn thu này.
Để đạt được mục tiêu trên, cần xây dựng và triển khai thêm nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường đại học trong việc phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Anh Tuân, Giảng viên cao cấp, Phó Trưởng khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Tây Bắc chia sẻ: “Là một nhà giáo, nhà khoa học, tôi đánh giá rất cao Quyết định số 1705/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Việc đặt ra mục tiêu số lượng công bố khoa học và công trình ứng dụng khoa học công nghệ tính bình quân trên 01 giảng viên toàn thời gian đạt 0,6 công trình/năm là một định hướng chiến lược, khẳng định vai trò then chốt của nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong sự phát triển giáo dục đại học.
Đây không chỉ là một thước đo trách nhiệm của giảng viên mà còn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo để hình thành các giá trị khoa học và ứng dụng, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Tại Trường Đại học Tây Bắc, hiện tại, nhà trường đã đạt và vượt được con số này. Với đội ngũ 398 cán bộ, viên chức, gồm 6 Phó Giáo sư, 87 Tiến sĩ và 229 Thạc sĩ, tỷ lệ công bố khoa học tại trường hiện đạt 1,085 công trình/giảng viên/năm, gấp gần 1,8 lần so với mục tiêu đề ra.
Trong năm học 2023-2024, nhà trường đã triển khai 15 đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, 3 đề tài cấp tỉnh, 50 đề tài cấp cơ sở, và công bố 45 bài báo quốc tế cùng 387 bài báo trong nước. Những con số này minh chứng cho sự nỗ lực vượt bậc của đội ngũ cán bộ, giảng viên và chính sách đúng đắn của nhà trường trong việc phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tạo động lực để giảng viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu và gia tăng số lượng công bố
Nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt động quan trọng trong các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao. Vì vậy, để đạt được mục tiêu trên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo cần có các chiến lược và lộ trình cụ thể.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Trà, muốn đạt được mục tiêu như trong chiến lược đề ra, mỗi cơ sở giáo dục đại học cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cũng như chất lượng đào tạo cũng như xây dựng kế hoạch để phấn đấu, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Đầu tiên, cần nâng cao chất lượng tuyển sinh, đào tạo, khuyến khích sinh viên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo lực lượng kế cận. Điều này không chỉ giúp phát triển năng lực chuyên môn của sinh viên, nâng cao trình độ đào tạo của giảng viên mà còn đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao, kế thừa và phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học trong những năm tới.
"Điều quan trọng nhất vẫn là phải xây dựng được một lộ trình cụ thể. Hiện tại, mặc dù con số này có thể là một thách thức, tuy nhiên, nếu có lộ trình nâng dần các tiêu chuẩn trong quy chế nội bộ qua từng năm, mục tiêu này sẽ khả thi", cô Trà chia sẻ.
Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Anh Tuân, để tiếp tục duy trì và phát huy những kết quả trên, Trường Đại học Tây Bắc đã ban hành Quy định số 260/QĐ-ĐHTB, thiết lập cơ chế khen thưởng và vinh danh các nhà khoa học tiêu biểu.
Những giảng viên đạt tối thiểu 2 điểm công trình/năm theo thang điểm của Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước sẽ được công nhận danh hiệu "Nhà khoa học tiêu biểu" với nhiều ưu đãi, bao gồm: ưu tiên giao chủ trì nhiệm vụ nghiên cứu đặt hàng, tham dự hội nghị khoa học trong nước và quốc tế, sử dụng trang thiết bị của các phòng thí nghiệm và xét các danh hiệu thi đua.
Ngoài ra, chính sách thưởng bằng tiền mặt cho các công bố quốc tế cũng được áp dụng để khuyến khích các giảng viên tích cực hơn nữa trong hoạt động nghiên cứu và công bố quốc tế.
Song song với các chính sách khuyến khích cá nhân, nhà trường đặc biệt chú trọng phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh. Hiện tại, nhà trường đã thành lập 5 nhóm nghiên cứu mạnh, được hỗ trợ kinh phí để phát triển các sản phẩm khoa học ứng dụng trong vòng 5 năm, với mục tiêu đăng ký sở hữu trí tuệ, sáng chế và nhãn hiệu, hướng tới công bố quốc tế.
Những nỗ lực này không chỉ giúp nâng cao vị thế của nhà trường mà còn đóng góp trực tiếp vào sự đổi mới sáng tạo quốc gia.
“Có thể khẳng định rằng mục tiêu 0,6 công trình/năm không chỉ cần thiết mà còn hoàn toàn khả thi nếu các cơ sở giáo dục đại học có chiến lược cụ thể, đầu tư đúng mức và cơ chế khích lệ phù hợp.
Nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và không ngừng đổi mới để đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển giáo dục, khoa học công nghệ và kinh tế - xã hội của đất nước.
Với tầm nhìn chiến lược và sự đồng lòng của toàn ngành, chúng tôi tin tưởng rằng mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn 2045 sẽ đạt được những thành tựu đột phá”, thầy Tuân chia sẻ.