Cần đảm bảo công việc sau tốt nghiệp để thu hút thí sinh học ngành nặng nhọc

01/03/2025 06:29
Diệu Dương
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Chính sách giúp cơ hội việc làm rộng mở, mức thu nhập của đơn vị tuyển dụng chi trả cần phản ánh đúng công sức, rủi ro và điều kiện làm việc của người lao động.

Trong bối cảnh thị trường lao động thiếu hụt nguồn nhân lực ở nhiều ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, Nhà nước đã ban hành chính sách miễn, giảm học phí lên tới 70% để khuyến khích học sinh, sinh viên theo học những lĩnh vực này. Đây là một bước đi cần thiết nhằm thu hút lực lượng lao động để đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội, giúp phần nào giảm bớt rào cản tài chính.

Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh chính sách hỗ trợ học phí, nhiều chuyên gia và lãnh đạo cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho rằng rào cản lớn nhất khiến người trẻ e ngại theo học các ngành nghề nặng nhọc, độc hại còn ở bài toán đầu ra việc làm. Những yếu tố như cơ hội thăng tiến, môi trường làm việc có chế độ đãi ngộ tương xứng, phúc lợi đủ hấp dẫn để thu hút và giữ chân người lao động,... đều cần được giải quyết để đảm bảo tính bền vững cho nguồn nhân lực trong các ngành nghề này.

Cần "chất xúc tác" thu hút người học ngành nghề nặng nhọc, độc hại

Những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những công việc này không chỉ tạo ra nguồn nguyên liệu và sản phẩm thiết yếu mà còn là nền tảng quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp khác. Dù vất vả và tiềm ẩn rủi ro, đây vẫn là lực lượng lao động cốt lõi, góp phần duy trì chuỗi sản xuất và đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế, vì vậy những ngành nghề này đòi hỏi các chính sách thu hút hiệu quả và bền vững.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Nguyễn Mạnh Trường – Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định chia sẻ, hiện nay, sinh viên không mấy mặn mà với các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực trong tương lai, kể cả là đội ngũ giáo viên giảng dạy các ngành học này. Khi số lượng sinh viên theo học giảm sút, nguồn cung giáo viên cũng dần khan hiếm, tạo nên vòng luẩn quẩn trong việc đào tạo và phát triển nhân lực.

Bên cạnh đó, thực tế tại nhiều trường cao đẳng nghề, trang thiết bị máy móc và công nghệ bảo hộ nhằm đảm bảo an toàn cho sức khỏe cho người lao động trong các ngành nghề này còn tương đối hạn chế. Chính điều này cũng dễ dẫn đến người lao động có tâm lý kén chọn công việc, ưu tiên những ngành ít ảnh hưởng đến sức khỏe hơn, hay nhiều lao động mong muốn được nghỉ hưu sớm do lo ngại nguy cơ gặp vấn đề về sức khỏe do rủi ro phát sinh từ nghề nghiệp và đặc thù của công việc.

Ảnh minh hoạ: Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định.

Ảnh minh hoạ: Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định.

Điều này đặt ra bài toán không chỉ về chính sách thu hút nhân lực, hỗ trợ về mặt tài chính trong quá trình học tập, mà còn đòi hỏi cải thiện về cơ hội việc làm sau tốt nghiệp, môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ và phúc lợi dài hạn nhằm giữ chân lao động trong các ngành nghề này.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, lãnh đạo của một trường cao đẳng tại khu vực miền Nam cho biết, Thông tư 05/2023/TT-BLĐTBXH ngày 15/06/2023 ban hành có quy định Danh mục ngành, nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 30/7/2023, áp dụng đối với các khóa học tuyển sinh và tổ chức đào tạo.

Theo đó, danh mục ngành nghề đặc thù có tính chất nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ở trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng bao gồm các ngành: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; Mỹ thuật; Nghệ thuật trình diễn; Mỹ thuật ứng dụng; Khoa học sự sống; Công nghệ kỹ thuật; Công nghệ kỹ thuật cơ khí; Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử và viễn thông; Công nghệ hoá học, vật liệu, luyện kim và môi trường; Công nghệ sản xuất; Công nghệ kỹ thuật địa chất, địa vật lý và trắc địa; Công nghệ kỹ thuật mỏ; Kỹ thuật cơ khí và cơ kỹ thuật; Kỹ thuật điện, điện tử và viễn thông; Kỹ thuật hóa học, vật liệu, luyện kim và môi trường; Sản xuất và chế biến; Kiến trúc và xây dựng; Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; Thú y; Y học; Dược học; Điều dưỡng, hộ sinh; Kỹ thuật y học; Du lịch, khách sạn, thể thao và dịch vụ cá nhân; Dịch vụ vận tải; Môi trường và bảo vệ môi trường; Quân sự.

Thông tư này thay thế Thông tư số 36/2017/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Danh mục ngành, nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.

Học phí đối với người học các ngành, nghề độc hại theo Thông tư Thông tư 05/2023/TT- BLĐTBXH, được căn cứ theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học phí; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.

Theo khoản 1, Điều 16, Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, đối tượng học sinh, sinh viên học các ngành nghề đặc thù, nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với giáo dục nghề nghiệp theo quy định trong danh mục được giảm 70% học phí. Chính sách này không phân biệt đối với người học trường công lập hay ngoài công lập.

Ảnh minh hoạ: Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định.
Ảnh minh hoạ: Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định.

Có thể thấy, những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm rất cần những chính sách thu hút, cơ chế khuyến khích, chế độ đãi ngộ để làm "chất xúc tác", tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng thêm sức hấp dẫn, thu hút được người học trong mùa tuyển sinh. Điều đáng nói, nguồn nhân lực ở các ngành nghề đặc thù hiện nay vẫn luôn khan hiếm, đòi hỏi nguồn nhân lực dồi dào qua đào tạo trong tương lai.

Bên cạnh được thụ hưởng chính sách ưu tiên nhóm nghề đặc thù có tính chất nặng nhọc, độc hại, cơ sở đào tạo còn cần tạo điều kiện hỗ trợ học bổng khuyến khích đối với học sinh hàng năm đạt loại Khá, Giỏi và học sinh có hoàn cảnh khó khăn để các em theo học những ngành nghề này có thể yên tâm học tập và rèn luyện.

Song, để thu hút hiệu quả học sinh hơn nữa và đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động hiện nay, những ngành nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có liên quan nên tạo điều kiện thêm cho người học được tiếp cận, học tập với các công nghệ mới, đảm bảo yêu cầu của doanh nghiệp, có cơ hội việc làm rộng mở ngay sau khi tốt nghiệp, khả năng thăng tiến tốt và mức thu nhập khởi điểm tương xứng. Mặt khác, doanh nghiệp nên có những chính sách, hỗ trợ như sau khi thực tập xong, các em có thể quay lại làm việc luôn tại đơn vị đó.

Tạo tâm lý yên tâm cho người lao động về cơ hội việc làm

Theo thầy Nguyễn Mạnh Trường, để giữ chân người lao động trong các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, điều quan trọng trước hết cần làm là đảm bảo họ có công việc ổn định và mức thu nhập tương xứng với công sức bỏ ra. Nếu người lao động không nhìn thấy triển vọng nghề nghiệp, không có cơ hội phát triển lâu dài hoặc mức lương không đủ hấp dẫn, họ sẽ dễ dàng rời bỏ ngành, chuyển sang những công việc nhẹ nhàng hơn hoặc có đãi ngộ tốt hơn.

Chẳng hạn, đối với ngành Hàn, Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định mở rộng cơ hội việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp bằng cách liên kết với các đối tác để xuất khẩu lao động sang những thị trường có nhu cầu lớn. Điều này không chỉ mang lại mức thu nhập hấp dẫn, mà còn giúp nâng cao tay nghề cho lao động Việt Nam, tạo cơ hội phát triển sự nghiệp bền vững hơn.

Đề xuất về giải pháp, thầy Nguyễn Mạnh Trường cho rằng, các trường cao đẳng nghề cần năng động trong việc tìm ra các mô hình hoạt động giảng dạy, đào tạo để có thể thu hút người học trong công tác tuyển sinh, tạo tâm lý gắn bó với công việc cho người học trong tương lai. Đồng thời mong muốn Nhà nước có thêm cơ chế hỗ trợ về trang thiết bị, cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện, máy móc cho người dạy và học, các thiết bị bảo hộ theo công nghệ tiên tiến để giảm thiểu ảnh hưởng tới sức khỏe của lực lượng lao động tại trường nghề.

Screenshot 2025-02-26 151142.png
Ảnh minh hoạ: Trường Cao đẳng Cơ điện Xây dựng Việt Xô.

Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp trong nước và đơn vị tuyển dụng lao động quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà nước có thể điều tiết để đảm bảo sự cân bằng giữa nguồn cung lao động và nhu cầu tuyển dụng trên thị trường. Điều này đồng nghĩa với việc cơ hội việc làm rộng mở, mức thu nhập do các đơn vị tuyển dụng chi trả cần phản ánh đúng công sức, rủi ro và điều kiện làm việc của người lao động. Khi thu nhập được đảm bảo ở mức hợp lý, những người theo học các ngành nghề nặng nhọc, độc hại sẽ có tâm lý yên tâm hơn về cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp, từ đó thúc đẩy sự thu hút và ổn định nguồn nhân lực trong những lĩnh vực này.

Theo thầy Phùng Văn Cao - Trưởng Khoa Xây dựng, Trường Cao đẳng Cơ điện Xây dựng Việt Xô, xu hướng hiện nay của nhiều lao động trẻ là tìm kiếm công việc nhẹ nhàng, môi trường làm việc dễ dàng hơn, thay vì lựa chọn các ngành nghề nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại. Do đó, lĩnh vực công việc này hiện nay khan hiếm nguồn nhân lực.

Hơn nữa, công tác phân luồng giáo dục vẫn chưa đạt hiệu quả cao, còn thực trạng học sinh và phụ huynh lựa chọn các ngành nghề không phù hợp với năng lực cá nhân và nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Điều này gây mất cân đối nhân lực và không đảm bảo chất lượng đầu ra cho xã hội.

Theo đó, chúng ta cần những chính sách khuyến khích, thu hút người học, người lao động ở các ngành nghề nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại nhằm đảm bảo đầu ra, cơ hội việc làm ổn định, hấp dẫn, phù hợp. Các tổ chức doanh nghiệp cần có những cơ chế tuyển dụng rõ ràng hơn, trong đó phân định rõ yêu cầu về bằng cấp, năng lực chuyên môn đối với lao động.

Việc định hướng nghề nghiệp và công tác phân luồng học sinh ngay từ bậc phổ thông cần được thực hiện hiệu quả hơn, giúp người học có cái nhìn thực tế về thị trường lao động, từ đó đưa ra những lựa chọn phù hợp. Điều này cần được triển khai bài bản và hiệu quả, không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu ngành nghề một cách chung chung mà còn phải giúp học sinh hiểu rõ nhu cầu thực tế của thị trường lao động và dựa trên cơ sở đánh giá năng lực cá nhân của học sinh, tránh tâm lý chạy theo bằng cấp mà không quan tâm đến khả năng và sở thích thực sự của bản thân.

Khi việc định hướng nghề nghiệp được thực hiện tốt, học sinh sẽ có cơ hội lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực và nhu cầu thực tế của thị trường lao động, từ đó giảm thiểu tình trạng mất cân đối nhân lực trong xã hội.

Diệu Dương