Nhiều thành tựu đáng tự hào của ngành Y tế Việt Nam

10/09/2020 09:09
Tùng Dương
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Những ca ghép tạng khó là dấu ấn đột phá, thể hiện nỗ lực lớn của các y bác sĩ cống hiến hết mình vì bệnh nhân.

Trong những năm qua, ngành y tế Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn tốt với người dân, thể hiện bằng con số hết sức cụ thể: Hơn 90% người bệnh hài lòng với sự thay đổi của ngành y, bởi tất cả những gì hướng tới đều nhằm chăm sóc tốt nhất cho sức khỏe nhân dân.

Đề án “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh” được toàn ngành hưởng ứng, quyết tâm thực hiện và tiếp tục đẩy mạnh năm 2019. Đặc biệt, Bộ Y tế luôn chú trọng cải thiện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tất cả các dịch vụ đều hướng tới sự hài lòng của bệnh nhân.

Ngoài việc làm tốt công tác phục vụ khám chữa bệnh, ở mảng khoa học và ứng dụng các kỹ thuật y học hiện đại, Việt Nam tiếp tục được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin.

Bên cạnh đó còn có ứng dụng công nghệ sinh học vào sàng lọc và chẩn đoán phát hiện nhanh, chính xác các tác nhân gây dịch như sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng... Đây là cơ sở để không xảy ra dịch trên quy mô lớn.

Việt Nam tiếp tục được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin. Ảnh minh họa: Tùng Dương.

Việt Nam tiếp tục được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin. Ảnh minh họa: Tùng Dương.

Kỹ thuật y khoa liên tục tạo được dấu ấn mới

Ngoài các kỹ thuật thường quy về ghép tim, ghép gan, ghép thận, ghép tủy, giác mạc...năm 2018 ngành y đã ghi dấu ấn thực hiện thành công ghép phổi; làm chủ và hoàn thiện đưa nhiều kỹ thuật y học Việt Nam đạt tầm thế giới (can thiệp mạch, phẫu thuật nội soi, hỗ trợ sinh sản...).

Thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị như phẫu thuật nội soi, can thiệp tim mạch, chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ sinh sản, điều trị ung thư máu, nhồi máu cơ tim, bệnh lý xương - khớp, bỏng, phẫu thuật tạo hình; ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh về máu.

Lần đầu tiên Trung tâm Tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thực hiện ghép tim cho 2 bệnh nhân trong 2 ngày liên tiếp 11 và 12/9/2020. Hiện 2 bệnh nhân được ghép tim đã ổn định, đang hồi phục tốt.

Cũng trong thời gian qua, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức tiếp tục lập nên những kỷ lục mới trong ngành ghép tạng. Lần đầu tiên trong 13 ngày từ ngày 30/8 đến ngày 12/9/2020, các chuyên gia đã ghép thành công 23 tạng gồm: 3 tim, 4 gan, 16 thận (trong đó gồm: 8 thận từ người cho sống, 15 tạng từ người cho chết não). Hiện tại, tất cả các tạng đều rất tốt.

Từ ngày 12-18/8/2019, các cá nhân và tập thể Y bác sỹ tại Bệnh Viện Hữu nghị Việt Đức đã thực hiện thành công 15 ca ghép tạng. Với 15 ca ghép tạng trong 1 tuần tạo dấu ấn đột phá, thể hiện nỗ lực lớn của tập thể lãnh đạo Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và các y bác sĩ cống hiến hết mình vì người bệnh.

Hy vọng trong thời gian tới hoạt động ghép tạng của các y, bác sĩ Bệnh viện Việt Đức sẽ nhân lên nhiều hơn trong thời gian tới và hướng tới nghiên cứu đến việc khó nhất là ghép tụy.

Gần 30 năm qua, ghép tạng ban đầu chỉ là ước mơ đối với giới y học và người bệnh Việt Nam chẳng may bị suy tạng cần điều trị thay thế. Nay điều đó đã trở thành sự thật. Với những thành tựu sau gần 30 năm thực hành ghép tạng cho thấy khả năng chuyên môn Việt Nam có thể bắt kịp ngành khoa học này, vốn có lịch sử phát triển hơn 60 năm, và Việt Nam bắt đầu chậm hơn thế giới gần nửa thế kỷ.

Lần đầu tiên, Việt Nam ghép ruột thành công từ người cho còn sống

Mới đây, Bệnh viện Quân Y 103 đã thực hiện thành công hai ca ghép ruột từ người cho sống trong hai ngày liên tiếp, 27 và 28-10. Bệnh nhân L.V.T. (26 tuổi) được ghép ruột từ mẹ đẻ. Bệnh nhân N.V.D. (42 tuổi) được anh trai hiến ruột.

Hai bệnh nhân được ghép ruột tại Bệnh viện Quân y 103 - Học viện Quân y đều là những trường hợp ruột đã mất hoàn toàn chức năng năng tiêu hóa và phải nuôi sống bằng cách truyền dinh dưỡng qua tĩnh mạch. Nếu không được ghép ruột, các bệnh nhân sẽ đối mặt với nguy cơ cao bị biến chứng liên quan đến nuôi dưỡng tĩnh mạch và có thể tử vong bất cứ lúc nào.

Bệnh nhân D. vào viện với chẩn đoán suy ruột không hồi phục do hội chứng ruột ngắn type 1, rò đại tràng. Người đàn ông có tiền sử phẫu thuật ổ bụng năm lần vì viêm phúc mạc do thủng đại tràng, tắc ruột tại nhiều bệnh viện. Bệnh nhân đã phẫu thuật cắt khối lượng lớn ruột (chiều dài ruột non còn lại khoảng 80 cm) vào tháng 5-2007.

Bệnh nhân T. được chuyển về điều trị tại Bệnh viện Quân Y 103 cuối tháng 9 với chẩn đoán suy mòn suy kiệt do hội chứng ruột cực ngắn type 3. Trước đó, anh bị viêm phúc mạc do hoại tử gần như toàn bộ ruột non nên được Bệnh viện huyện Than Uyên (Lai Châu) phẫu thuật cấp cứu cắt bộ phận này. Ruột anh T. chỉ còn lại gần 20 cm.

Tại Bệnh viện Quân Y 103, hai bệnh nhân được điều trị tích cực, nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch. Chỉ định ghép ruột là lựa chọn duy nhất để cứu sống hai bệnh nhân vì bộ phận này được xác định mất chức năng hoàn toàn, không thể hồi phục.

Ca phẫu thuật ghép ruột đặt ra cho các y, bác sĩ nhiều thử thách lớn. Trong đó, khó khăn nhất là việc lựa chọn cách ghép, đặc biệt là trong việc nối động mạch, tĩnh mạch từ ruột ghép vào cơ thể bệnh nhân. Các bác sĩ phải làm sao để mạch đó không bị xoắn lại, nhằm bảo đảm khả năng nuôi dưỡng ruột ghép, đây là điều rất khó.

Ghép ruột đem lại cho bệnh nhân cơ hội sống. Tuy nhiên, bệnh nhân được thay thế lượng ruột tương đối lớn, khoảng trên 1m. Điều đó đồng nghĩa khối lượng kháng nguyên đưa vào người nhận rất lớn. Đặc biệt, ruột có nhiều hệ bạch huyết. Đường tiêu hóa có đặc trưng là mở, thường xuyên ăn uống, tạo nên hệ thống kháng nguyên rất lớn.

Hai ca ghép ruột diễn ra 12-14 giờ. Hiện tại, hai người cho ruột ổn định sức khỏe. Hai bệnh nhân ghép ruột đang được theo dõi, điều trị tích cực. Các chỉ số sinh tồn đều ổn định.

Về phía người hiến, chuyên gia cho biết ruột người thông thường dài 5-9 m, khi cho đi một phần, số còn lại vẫn đủ dùng. Sau một tháng, người cho sẽ quay lại sinh hoạt bình thường và không cần dùng thuốc.

Trung tướng, Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Quyết - Giám đốc Học viện Quân Y cho biết: "Hiện thế giới chỉ có 61 trung tâm ghép ruột ở 19 nước với khoảng 1.000 ca được triển khai. Việt Nam trở thành quốc gia thứ 20 ghép ruột thành công. Đây là một thành tựu trong ghép tạng cũng như đem lại tương lai tươi sáng cho bệnh nhân”.

Ngoài ra trên cả nước, các trung tâm y tế chuyên sâu đang được triển khai hiệu quả, nhờ đó nhiều kỹ thuật về chẩn đoán, phẫu thuật và điều trị ngang tầm với các nước trong khu vực, như thụ tinh trong ống nghiệm, ghép tạng, trong đó đã ghép tim thành công. Cho đến nay, hệ thống y tế nước ta đã có 15 cơ sở ghép được tim, thận, gan, ghép giác mạc, ghép tế bào gốc tạo máu.

Ngoài bệnh viện Việt Đức thì còn nhiều bệnh viện lớn khác như Bệnh viện Quân đội 108, Bệnh viện K, Bệnh viện Bạch Mai, Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, Bệnh Viện E... đều đã thực hiện thành công nhiều ca phẫu thuật khó và kết quả thành công còn vượt ra ngoài dự đoán của những người lạc quan nhất.

Trong đó phải kể tới kỹ thuật phẫu thuật nội soi tuyến giáp một lỗ tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Bác sĩ của Bệnh viện Việt Đức cũng đã thực hiện ghép phổi thành công và tiến hành lấy đồng thời 6 tạng từ cùng một người cho chết não để ghép cho 5 bệnh nhân.

Việt Nam cũng đã thực hiện thành công kỹ thuật lấy đồng thời 6 tạng để ghép từ cùng một người cho đa tạng chết não và đã tiến hành ghép 5 tạng cùng một thời điểm cho 4 bệnh nhân (1 tim, 2 phổi, 1 gan, 1 thận), và kết hợp điều phối “xuyên Việt” 1 thận cho bệnh nhi ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Học viện Quân y là đơn vị đầu tiên trong cả nước triển khai nghiên cứu và thực hiện thành công năm ca ghép tạng đầu tiên trên người, góp phần tạo nên bước phát triển vượt bậc của nền y học nước nhà; được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ.

Học viện Quân y là cơ sở đầu tiên của quân đội thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, hiện đã có 4.500 cháu ra đời bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó có 2.000 cháu ra đời bằng thu tinh trong ống nghiệm.

Mô hình bệnh viện vệ tinh đã giúp giảm tỷ lệ chuyển tuyến, đạt từ 65 - 100% số ca chuyển tuyến ở những chuyên khoa thực hiện chuyển giao kỹ thuật tại các bệnh viện vệ tinh. Ảnh minh họa: Tùng Dương.

Mô hình bệnh viện vệ tinh đã giúp giảm tỷ lệ chuyển tuyến, đạt từ 65 - 100% số ca chuyển tuyến ở những chuyên khoa thực hiện chuyển giao kỹ thuật tại các bệnh viện vệ tinh. Ảnh minh họa: Tùng Dương.

Luôn lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo để phấn đấu

Trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, ngành y cũng đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào như: Củng cố mạng lưới khám, chữa bệnh từ Trung ương đến xã với hơn 1.400 bệnh viện, 180.000 giường bệnh, khám và điều trị ngoại trú cho 120.000 lượt người bệnh, điều trị cho hơn 10 triệu lượt người, thực hiện hàng triệu thủ thuật, khoảng 2 triệu ca phẫu thuật phức tạp hàng năm.

Cùng với việc hình thành và phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu, ngành Y tế khánh thành đưa vào sử dụng, khởi công nhiều công trình y tế hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân.

Lần đầu tiên việc lập hồ sơ sức khỏe cá nhân gắn với bảo hiểm y tế toàn dân và chăm sóc sức khỏe toàn dân được thực hiện với hơn 11.400 trạm y tế cấp xã, trong đó 78% số trạm có bác sĩ làm việc.

Bên cạnh đó, mô hình bệnh viện vệ tinh đã giúp giảm tỷ lệ chuyển tuyến, đạt từ 65 - 100% số ca chuyển tuyến ở những chuyên khoa thực hiện chuyển giao kỹ thuật tại các bệnh viện vệ tinh.

Thống kê cho thấy, hiện đã xây dựng và hình thành 23 bệnh viện hạt nhân và 127 bệnh viện vệ tinh. 10 chuyên khoa được đầu tư và ưu tiên phát triển là ung bướu, ngoại chấn thương, tim mạch, sản, nhi, nội tiết, thần kinh, huyết học lâm sàng, hồi sức cấp cứu, chống độc.

Có thể nói, những kết quả của đề án bệnh viện vệ tinh đã từng bước giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện, đặc biệt là tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài các lĩnh vực trên, ngành Dược cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh sản xuất thuốc, vắc xin sản xuất trong nước.

Thực hiện các nghị quyết Trung ương về y tế, hệ thống chính sách, pháp luật y tế ngày càng được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp; nhân lực tăng nhanh; chất lượng dịch vụ được nâng lên; ngăn chặn kịp thời các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch lớn; tài chính y tế có nhiều đổi mới đột phá; bao phủ bảo hiểm y tế được mở rộng.

Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở y tế, sắp xếp các đơn vị y tế công lập theo hướng tinh gọn đầu mối, hiệu lực, hiệu quả, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính phù hợp; quyết tâm hoàn thiện mô hình trạm y tế xã hoạt động theo nguyên lý y học gia đình, lấy người dân làm trung tâm, tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Về Y tế chuyên sâu đã hình thành được các trung tâm y tế chuyên sâu tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế - Đà Nẵng; xây dựng một số bệnh viện đa khoa tỉnh làm nhiệm vụ vùng, đã và đang đầu tư 05 bệnh viện trung ương tuyến cuối tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực để phát triển các chuyên khoa, kỹ thuật cao.

Các bệnh viện đầu ngành cũng đã được trang bị nhiều loại thiết bị hiện đại trên thế giới để phục vụ công tác chẩn đoán, điều trị cũng như nghiên cứu khoa học. Hầu hết các kỹ thuật cao, kỹ thuật chuyên sâu trên thế giới và khu vực thực hiện được thì các bệnh viện Việt Nam cũng có khả năng và đang thực hiện được.

Một số kỹ thuật chuyên ngành đạt tốp đầu khu vực, nhiều nước đã đến học tập và nhận chuyển giao kỹ thuật. Các bệnh viện tuyến tỉnh cũng đã chú trọng phát triển các kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho người dân trên địa bàn.

Nhiều kỹ thuật trước đây chỉ các bệnh viện trung ương tuyến cuối mới thực hiện được, nhưng do đẩy mạnh đào tạo, chuyển giao kỹ thuật của tuyến trên và sự cố gắng, nỗ lực của các bệnh viện tuyến dưới, đến nay các bệnh viện tỉnh, huyện đã thực hiện được.

Tùng Dương