Hà Nội đầu tư mô hình trường công lập chất lượng cao, xây dựng trường liên cấp tiên tiến, hiện đại; cho phép trường công lập liên kết đào tạo với nước ngoài. Tuy nhiên, giáo dục đại trà vốn là trách nhiệm của giáo dục công, trong khi Hà Nội cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức về sĩ số trường lớp. Cho nên, hiện đang có nhiều ý kiến băn khoăn về việc dành một nguồn lực lớn đầu tư cho các cơ sở giáo dục cung cấp dịch vụ giáo dục chất lượng cao ở trường công.
Đáp ứng phần nào nhu cầu của phụ huynh, song, còn lo ngại bất bình đẳng
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy - Tổng Hiệu trưởng Hệ thống Giáo dục Alpha (thành viên Tập đoàn Giáo dục EQuest) chia sẻ, Hà Nội là một trong những thành phố có tốc độ đô thị hóa rất nhanh, dân số đông thứ hai cả nước (với hơn 8,5 triệu người). Áp lực dân số cùng trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao của Hà Nội, với mức thu nhập tương đối cao của phụ huynh, đã tạo ra nhu cầu học tập rất đa dạng.
Tháng 10/2024, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ban hành kế hoạch huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục. Mục tiêu là số trường tư chiếm 21% tổng số trường học và 14-16% số học sinh vào năm 2025.
Trong đó, mục tiêu cụ thể được đặt ra như sau, với bậc mầm non, số cơ sở giáo dục tư thục phấn đấu đạt tỉ lệ 30%, tương ứng với số trẻ em theo học đạt khoảng 30%. Đối với giáo dục phổ thông, số trường tư thục phấn đấu đạt 13%, với số học sinh tiểu học đạt 8%, học sinh trung học cơ sở đạt 7% và học sinh trung học phổ thông đạt 40%.

Chính vì vậy, theo Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy, hệ thống các trường tư thục đã và đang đóng góp một số vai trò quan trọng như: “Thứ nhất, giảm bớt “gánh nặng”, áp lực sĩ số đối với các trường công lập, đảm bảo điều kiện phát triển giáo dục cho tất cả học sinh trên địa bàn Thủ đô với nhu cầu học tập đa dạng.
Thứ hai, các trường tư thục đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đồng thời tạo ra sức cạnh tranh để các trường công lập có thể đổi mới, liên tục đổi mới trong giáo dục, đặc biệt, tạo nguồn tuyển sinh chất lượng cho các trường đại học cả trong nước và quốc tế. Từ đó, gián tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa bàn Thủ đô Hà Nội nói riêng, cũng như cả nước nói chung”.
Thời gian qua, việc Hà Nội chủ trương đầu tư nhân rộng mô hình trường công lập chất lượng cao, xây dựng trường liên cấp tiên tiến, hiện đại; cho phép trường công lập liên kết đào tạo với nước ngoài đã khiến không ít nhà đầu tư giáo dục có sự băn khoăn.
Về vấn đề này, Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy cho rằng, trên thực tế, mục tiêu thành lập các trường công lập chất lượng cao cũng xuất phát từ mong muốn tạo ra mô hình tiên tiến để thay đổi, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông công lập nói chung. Đó là một mục tiêu quan trọng và cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu của một bộ phận phụ huynh thì khi muốn gửi gắm con học tại các trường phổ thông công lập có chất lượng cao hơn. Các trường công lập đã và đang có những ưu thế về mặt đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ, được hỗ trợ về mặt tài chính… Nếu được quản lý tốt, có thể lan tỏa mô hình giáo dục tiên tiến, từ đó, nâng cao chất lượng giáo dục Thủ đô.
Tuy nhiên, theo Tổng Hiệu trưởng Hệ thống Giáo dục Alpha, chủ trương này cũng đang có sự mâu thuẫn với một số quy định, chính sách hiện hành, bởi cốt lõi là do chưa có quy định rõ ràng, cụ thể liên quan đến loại hình trường công lập chất lượng cao cũng như hướng dẫn hoạt động, vận hành.

Vì vậy, khi mô hình trường công lập chất lượng cao được ưu tiên phát triển, cũng có một số lo ngại: “Trước hết, liên quan đến sự bất bình đẳng trong hệ thống giáo dục, bởi, cùng là trường công lập được đầu tư từ ngân sách nhà nước nhưng trường công lập chất lượng cao lại thu mức học phí cao hơn các trường công lập khác.
Thứ hai, nếu trường công lập chất lượng cao được đầu tư và hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước về rất nhiều yếu tố, vô hình trung có thể tạo ra những cạnh tranh không lành mạnh với hệ thống trường tư thục.
Thứ ba, các trường phổ thông công lập chất lượng cao có thể thu hút nguồn giáo viên chất lượng tốt, vì thế cũng có thể tạo ra những khó khăn nhất định đối với những trường ngoài công lập khi muốn tuyển dụng giáo viên. Không những vậy, đây cũng là một “thiệt thòi” đối với học sinh tại các trường công lập khác, khi các em có thể bị mất đi cơ hội tiếp cận với những giáo viên giỏi trước đây, vì các thầy cô đã được tập trung vào trường chất lượng cao.
Về mặt quản lý tài chính ở các trường công lập chất lượng cao, cũng phải hết sức minh bạch. Bởi nếu không, cũng có một số e ngại rằng mô hình này sẽ trở về mô hình “tư nhân hóa hệ thống công lập”, khi mà trường vẫn còn nhận được các ưu đãi, nhưng học phí (có thể cao hơn trường công lập đại trà) vẫn thấp hơn trường tư thục. Như vậy, có thể tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa hai hệ thống giáo dục tư thục - công lập, cũng sẽ gián tiếp gây ra những khó khăn cho hệ thống trường tư thục.
Đó cũng là một trong những lo ngại về việc mất công bằng trong khi ngành giáo dục Thủ đô phát triển mô hình giáo dục công lập chất lượng cao mà chưa có những sự tính toán hoặc thiếu kiểm soát, thiếu các cơ chế rõ ràng”.

Cần cân đối để song hành hai hệ thống giáo dục công lập và tư thục
Chia sẻ về những thuận lợi, khó khăn đối với các cơ sở giáo dục tư thục trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy cho biết: “Những năm gần đây, lãnh đạo ngành giáo dục và lãnh đạo quận, thành phố đều đã tạo nhiều điều kiện quan tâm tới các trường tư thục. Năm 2024, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định thành lập Phòng Giáo dục tư thục và có yếu tố nước ngoài trực thuộc Sở. Điều đó cho thấy sự quan tâm của lãnh đạo Sở đối với hệ thống giáo dục ngoài công lập. Ngoài ra, các trường tư cũng được tạo nhiều điều kiện tham gia các hoạt động chuyên môn.
Tuy nhiên, quá trình phát triển trường tư thục trên địa bàn thành phố vẫn còn gặp không ít khó khăn.
Khó khăn đầu tiên là việc tiếp cận quỹ đất để xây trường không dễ, chưa có nhiều sự hỗ trợ về thuế cho các trường. Khó khăn thứ hai là chưa có chính sách hỗ trợ về tài chính cho học sinh có năng lực học tập và có mong muốn học tại môi trường tư thục.
Về điều này, theo tôi, cần có cơ chế hỗ trợ tài chính không phân biệt là trường tư thục hay trường công lập chất lượng cao.
Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh một cách công bằng giữa mô hình trường công lập với tư thục, tôi cho rằng, có thể tính đến cơ chế công khai chất lượng kiểm định của các cơ sở giáo dục. Có thể yêu cầu kiểm định chất lượng thông qua các trung tâm kiểm định độc lập, sau đó, cơ quan quản lý là sở giáo dục và đào tạo có thể công khai minh bạch danh sách các trường và kết quả kiểm định. Như vậy, phụ huynh sẽ có thêm một “kênh” thông tin uy tín khi chọn trường cho con, thay vì chỉ là sự tìm hiểu qua quảng cáo của nhà trường hay chia sẻ từ các diễn đàn trên mạng”.
Cô Thủy bày tỏ: “Tôi cho rằng, lãnh đạo ngành giáo dục Thủ đô cũng cần xem xét và xác định lại vai trò của hệ thống trường tư thục là một phần không thể thiếu của hệ thống giáo dục trong thành phố. Nói dễ hiểu giống như việc xem hệ thống giáo dục công lập và tư thục như “hai người con” có vị trí, vai trò như nhau, đều được “yêu thương” như nhau.
Điều này rất quan trọng, bởi, mô hình giáo dục công lập hay tư thục vẫn luôn là hai mô hình song hành. Kể cả đối với những quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển và có chất lượng giáo dục tiên tiến như Hoa Kỳ, Phần Lan, Singapore… vẫn luôn song hành hai hệ thống là giáo dục công lập và tư thục.
Mỗi hệ thống sẽ có vai trò khác nhau. Chẳng hạn, với hệ thống giáo dục công lập, vai trò, mục tiêu quan trọng nhất là đảm bảo giáo dục đại trà, đảm bảo tính công bằng trong khả năng tiếp cận giáo dục giữa các học sinh, dù với năng lực, điều kiện tài chính như thế nào. Ngược lại, đối với hệ thống giáo dục tư thục, các trường tư sẽ đáp ứng được những nhu cầu học tập đa dạng. Giống như tại Hà Nội hiện nay, trường tư cũng “trăm hoa đua nở”, mỗi trường sẽ có những thế mạnh và “điểm chạm” với khách hàng riêng.
Vì vậy, khi xây dựng mô hình công lập chất lượng cao, các cơ quan quản lý giáo dục của thành phố cũng cần phải có những định hướng phù hợp để hài hòa, cân đối, một mặt đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận phụ huynh và học sinh, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục công lập là tính đại trà và tạo ra cơ hội công bằng trong tiếp cận giáo dục của tất cả học sinh.
Khi tạo được sự thúc đẩy giữa hai hệ thống công lập và tư thục, thì hệ thống giáo dục Thủ đô mới có thể phát triển, góp phần đưa nền giáo dục của Thủ đô cũng có thể hội nhập được với các nền giáo dục trên thế giới”.

Tổng Hiệu trưởng Hệ thống Giáo dục Alpha nhấn mạnh: “Mặc dù, sự ra đời của mô hình trường công lập chất lượng cao là một trong các yếu tố nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục công lập nói chung; tuy nhiên, nếu không có sự kiểm soát, vô hình trung sẽ có khả năng làm khó khăn hơn hoặc thậm chí là triệt tiêu mô hình trường tư thục.
Cho nên, khi sắp xếp mô hình trường công lập chất lượng cao, tôi cho rằng, trước tiên phải có một khung pháp lý rõ ràng, với các tiêu chí cụ thể, để mô hình này sẽ phát triển đúng hướng. Đó là hình thành, dẫn dắt và nâng cao chất lượng giáo dục của các trường công lập khác, chứ không chỉ là một mô hình “đặc quyền” cho một nhóm học sinh có điều kiện tài chính vượt trội.
Bên cạnh đó, cần phải có những cơ chế, hoạch định rõ ràng để tránh tình trạng trường công lập chất lượng cao “nở rộ”, rồi sau đó không quản lý được, lại tạo ra sự mất cân bằng trong chính nội tại hệ thống công lập và ảnh hưởng không tích cực đến môi trường tư thục. Từ đó, sẽ tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh.
Bản chất của sự cạnh tranh này là đáp ứng được sự đa dạng trong nhu cầu về thị trường giáo dục, nên hai mô hình công lập và tư thục phải giống như hai đầu của chiếc đòn gánh. Nếu thiếu sự cân bằng, sự phát triển sẽ không bền vững và về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của Thủ đô, ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lao động trên địa bàn Thủ đô”.
Ngoài ra, theo Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy, có thể tính đến giải pháp phối hợp công - tư để phục vụ sự phát triển chung của giáo dục Thủ đô. Bởi, mỗi đơn vị sẽ có những thế mạnh riêng biệt, nếu có cơ chế để phối hợp giữa trường công lập với tư thục và tận dụng được nguồn lực của cả hai bên, cũng có thể xem đó là một giải pháp để thúc đẩy lẫn nhau, cùng phát triển.