Khái niệm còn có sự lẫn lộn
Nghiên cứu dự thảo Luật Nhà giáo (lần 5), tôi cho rằng một số nội dung trong dự thảo vẫn còn những hạt sạn cần phải loại bỏ để có bản Dự thảo chuẩn nhất trước khi trình vào kỳ họp thứ 8 tới đây. Một trong những hạt sạn phải kể đến là đang có sự lẫn lộn, mơ hồ giữa cán bộ quản lý giáo dục với cán bộ quản lý nhà nước về giáo dục dẫn đến những hệ lụy không mong muốn nếu áp dụng vào thực tế.
Định nghĩa "cán bộ quản lý giáo dục là người làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo theo phạm vi thẩm quyền được giao trong cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo" mới chỉ tập trung vào quản lý nhà nước về giáo dục, làm cho vai trò quản lý giáo dục bị giới hạn trong phạm vi các cơ quan hành chính như Bộ, Sở và Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Tuy nhiên, quản lý giáo dục là một khái niệm rộng hơn nhiều, bao gồm cả những người quản lý tại các trường học, cơ sở giáo dục tư thục và tổ chức giáo dục quốc tế. Những người này chịu trách nhiệm quản lý hoạt động giáo dục hàng ngày, điều hành chương trình học, và quản lý nhân sự và cơ sở vật chất của trường học đó.
Việc chỉ giới hạn vai trò quản lý giáo dục trong cơ quan hành chính nhà nước là một sai sót vì nó bỏ qua phần lớn hoạt động quản lý thực tế tại cấp cơ sở. Điều này dẫn đến cái nhìn thiếu toàn diện về công việc của người quản lý giáo dục, khi họ thực tế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục và phát triển học sinh.
Việc này cũng gây ra lẫn lộn khái niệm giữa cán bộ quản lý giáo dục với chuyên viên trong cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo giữa người có chức vụ quản lý được bổ nhiệm trong cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Mọi chuyên viên đều là cán bộ quản lý giáo dục?
Định nghĩa này chỉ tập trung vào vai trò quản lý hành chính và thực thi chính sách, mà không đề cập đến những trách nhiệm cụ thể về quản lý nhân sự, cơ sở vật chất, và chương trình giảng dạy mà người quản lý giáo dục tại các cơ sở giáo dục phải đảm nhận, dẫn đến việc không nhận diện đúng vai trò của người quản lý giáo dục tại các trường học.
Dưới đây là bảng so sánh giữa cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ quản lý nhà nước về giáo dục (do tác giả thống kê):
Tiêu chí |
Cán bộ quản lý giáo dục |
Cán bộ quản lý nhà nước về giáo dục |
Khái niệm |
Là những người được bổ nhiệm vào các vị trí quản lý tại các cơ sở giáo dục, như trường học, viện nghiên cứu. (Khoản 1, Điều 18, Luật Giáo dục 2019 |
Là những người thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo. (Nghị định 86/2022/NĐ-CP) |
Nơi làm việc |
Tại các cơ sở giáo dục cụ thể (trường học, trung tâm giáo dục, đại học...). |
Tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo. |
Chức danh cụ thể |
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Trưởng khoa, Trưởng phòng... |
Bộ trưởng, Thứ trưởng, Cục/Vụ trưởng, Giám đốc Sở, Phó Giám đốc Sở, Trưởng phòng, Chuyên viên. (Nghị định 86/2022/NĐ-CP) |
Chức năng, nhiệm vụ |
- Quản lý hoạt động hành chính, nhân sự, tài chính, và giáo dục trong phạm vi cơ sở giáo dục. - Triển khai và thực thi các chính sách giáo dục tại cơ sở mà họ quản lý. (Luật Giáo dục 2019) |
- Xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách, chiến lược giáo dục ở cấp nhà nước. - Chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc gia hoặc khu vực. (Nghị định 86/2022/NĐ-CP) |
Quyền hạn |
- Quyết định các vấn đề quản lý trong nội bộ cơ sở giáo dục. - Phê duyệt các kế hoạch giáo dục, ngân sách và quản lý nhân sự của trường hoặc trung tâm. |
- Ra quyết định, ban hành quy định, chỉ đạo chính sách giáo dục ở cấp nhà nước hoặc khu vực. - Điều hành, giám sát hệ thống giáo dục trên phạm vi rộng hơn (quốc gia, tỉnh, thành phố, quận huyện). (Luật Giáo dục 2019; Nghị định 86/2022/NĐ-CP) |
Phạm vi quản lý |
Phạm vi quản lý giới hạn trong một cơ sở giáo dục cụ thể. |
Phạm vi quản lý toàn diện ở cấp quốc gia hoặc địa phương (quản lý nhiều cơ sở giáo dục và hệ thống giáo dục). (Điều 101, Luật Giáo dục 2019) |
Trách nhiệm |
- Đảm bảo chất lượng giảng dạy, đào tạo và quản lý nhân sự tại cơ sở giáo dục mình phụ trách. |
- Đảm bảo thực thi đúng đắn các chính sách, quy định giáo dục trong phạm vi trách nhiệm nhà nước. (Điều 101, Luật Giáo dục 2019) |
Cấp bậc |
Thường là cấp quản lý nội bộ trong các trường học, viện nghiên cứu. |
Cấp quản lý hành chính nhà nước, thuộc các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. (Điều 11, Luật Tổ chức Chính phủ số: 76/2015/QH13). |
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) có tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp quốc tế, trong đó người quản lý được định nghĩa là những người chịu trách nhiệm điều hành, quản lý và tổ chức các nguồn lực để đạt được mục tiêu của tổ chức. Điều này bao gồm quản lý nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất, và chương trình hoạt động để đảm bảo hiệu quả hoạt động và đạt được kết quả mong muốn.
Tiêu chuẩn của ILO nhấn mạnh rằng, người quản lý không chỉ là những người thực hiện các quy định hoặc chính sách của nhà nước, mà họ phải có khả năng lãnh đạo và điều phối các nguồn lực một cách toàn diện để đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này bao gồm quản lý hoạt động hàng ngày và ra quyết định về mọi khía cạnh của tổ chức mà họ quản lý, từ chương trình giảng dạy đến quản lý nhân sự và tài chính. Định nghĩa cán bộ quản lý giáo dục chỉ là người thực thi các chính sách của nhà nước không phù hợp với tiêu chuẩn này, vì nó bỏ qua vai trò quan trọng của người quản lý tại cấp cơ sở giáo dục, nơi họ phải điều hành trực tiếp các hoạt động giảng dạy và quản lý nguồn lực của trường học.
Ngoài ra, Tiêu chuẩn của ILO yêu cầu người quản lý phải có khả năng quản lý thực tế mọi khía cạnh của tổ chức. Điều này có nghĩa rằng họ không chỉ đơn thuần là những người giám sát và thực thi quy định, mà còn phải đảm bảo rằng mọi nguồn lực được sử dụng hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra. Trong bối cảnh giáo dục, điều này bao gồm quản lý chất lượng giảng dạy, đảm bảo môi trường học tập an toàn, và tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm phát triển toàn diện học sinh. Định nghĩa hẹp của cán bộ quản lý giáo dục tập trung vào vai trò của quản lý nhà nước không thể hiện được trách nhiệm thực tế này, mâu thuẫn với tiêu chuẩn của ILO về sự toàn diện và linh hoạt của người quản lý trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Luật Giáo dục 2019 của Việt Nam đã đưa ra những quy định rõ ràng về vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục. Theo đó, cán bộ quản lý giáo dục phải chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục, bao gồm quản lý nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và chương trình giáo dục. Cũng theo Luật Giáo dục 2019, cán bộ quản lý giáo dục không chỉ thực hiện các chính sách của nhà nước mà còn phải đảm bảo việc quản lý, điều hành toàn diện các hoạt động giáo dục tại cơ sở giáo dục mà họ phụ trách. Điều này bao gồm cả việc quản lý hoạt động hàng ngày, điều phối chương trình học và giám sát chất lượng giảng dạy.
Do đó, định nghĩa cán bộ quản lý giáo dục chỉ là người làm nhiệm vụ quản lý nhà nước mâu thuẫn với quy định này của Luật Giáo dục 2019, vì nó không bao hàm vai trò quản lý trực tiếp tại các cơ sở giáo dục, nơi người quản lý giáo dục có nhiệm vụ quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giảng dạy và sự phát triển của học sinh.
Vì vậy, dự thảo cần hiệu chỉnh sao cho hệ thống luật pháp không bị trùng lắp, chồng chéo sẽ dẫn đến khó thực hiện.
Luật Giáo dục 2019 quy định rằng cán bộ quản lý giáo dục không chỉ làm việc trong cơ quan nhà nước mà còn có thể là những người quản lý tại các trường học, bao gồm cả trường tư thục và quốc tế. Trong khi định nghĩa trong dự thảo đã bỏ qua vai trò này, dẫn đến việc không phản ánh được thực tế về phạm vi quản lý rộng lớn của cán bộ quản lý giáo dục.
Cần định nghĩa lại cho đúng
Nếu người quản lý giáo dục chỉ được đào tạo theo định nghĩa là cán bộ hành chính nhà nước, thì họ sẽ thiếu các kỹ năng quan trọng về quản lý nhân sự, quản lý tài chính và điều hành chương trình giảng dạy tại các cơ sở giáo dục. Điều này sẽ dẫn đến sự thiếu hụt về năng lực quản lý trong các trường học, đặc biệt là trong hệ thống tư thục và quốc tế. Định nghĩa như thế dẫn đến cán bộ quản lý nhà nước đương nhiên là người có kinh nghiệm quản lý giáo dục để đáp ứng tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ quản lý ở các trường theo các quy định hiện hành.
Việc chỉ coi trọng kinh nghiệm hành chính nhà nước sẽ làm giảm cơ hội tuyển dụng các ứng viên có kinh nghiệm thực tiễn trong quản lý giáo dục tại các cơ sở giáo dục. Điều này có thể gây ra sự thiếu hụt nhân sự có năng lực quản lý tại cấp trường học. Tuyển dụng (hoặc bổ nhiệm) vào các vị trí quản lý giáo dục phải có bản mô tả việc để làm cơ sở tuyển dụng, nhưng với định nghĩa như thế thì chuyên viên công tác tại cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục Trung ương hay địa phương chưa thể đủ năng lực và kinh nghiệm để làm cán bộ quản lý giáo dục.
Chính sách đãi ngộ sẽ không phù hợp nếu vai trò của người quản lý giáo dục tại cấp cơ sở không được công nhận đúng mức. Điều này có thể dẫn đến việc người quản lý trường học không nhận được mức đãi ngộ tương xứng với công việc và trách nhiệm của họ, làm giảm động lực và hiệu quả làm việc.
Vì thế nên định nghĩa lại cho đúng về cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước về giáo dục và cán bộ chuyên viên quản lý nhà nước về giáo dục.
Với cán bộ quản lý giáo dục phải là người chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành, quản lý các hoạt động giáo dục tại các cơ sở giáo dục.
Cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước về giáo dục: Là những người được bổ nhiệm giữ các chức vụ điều hành và ra quyết định về chính sách giáo dục, bao gồm các cấp lãnh đạo trong Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở Giáo dục và Đào tạo các cơ quan quản lý giáo dục trực thuộc nhà nước.
Cán bộ chuyên viên quản lý nhà nước về giáo dục: Là những người làm việc tại các cơ quan quản lý giáo dục nhà nước, chịu trách nhiệm hỗ trợ, tư vấn, và tham mưu cho các lãnh đạo cấp cao trong việc soạn thảo, triển khai và giám sát thực hiện các chính sách giáo dục.
Tóm lại, yêu cầu sử dụng từ ngữ, các thuạt ngữ trong các văn bản luật rất cần cẩn trọng, nghiên cứu nghiêm túc, tránh chồng chéo, trùng lặp, mơ hồ khiến người thực hiện hiểu thế nào cũng được rất khó thực hiện. Điều này không chỉ giúp cải thiện chất lượng quản lý giáo dục mà còn đảm bảo sự phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và quy định pháp luật của Việt Nam.