Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng số trường học năm học 2022 - 2023 cấp trung học cơ sở là 11.356 trường, trong đó trường công lập có 11033 trường, tư thục có 323 trường; tổng số trường cấp trung học phổ thông là 2.970 trường, trong đó công lập có 2.465 trường, tư thục có 505 trường (so với năm học 2021-2022 số trường trung học cơ sở là 11.353 trường; số trường trung học phổ thông là 2.943 trường).
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo |
Qua biểu đồ trên cho thấy tổng số trường học năm học 2022 - 2023 cấp trung học cơ sở so với năm học 2021-2022 được giữ ổn định (chỉ tăng 03 trường); số trường cấp trung học phổ thông tăng 27 trường.
Trong đó, Hà Nội: 05 trường; Hà Giang: 04; Lạng Sơn: 04: Phú Thọ: 02; Vĩnh Phúc 01; Bắc Ninh 02: Hải Phòng: 01; Thái Bình: 01; Thanh Hóa: 01; Hà Tĩnh: 01; Đồng Nai: 01; Bà Rịa - Vũng Tàu: 02; Thành phố Hồ Chí Minh: 01; Bến Tre: 01; Đồng Tháp: 01; Hậu Giang 01.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá, do đây là những địa phương có số dân lớn, tốc độ đô thị hóa nhanh, sự gia tăng dân số nhanh, dân nhập cư nhiều sẽ dẫn đến phải xây dựng thêm trường học để đáp ứng việc gia tăng dân số nhanh và nhu cầu đi học của học sinh.
Cũng theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện tại, cả nước có 79 trường chuyên, trong đó có 73 trường chuyên trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo, 06 trường thuộc cơ sở giáo dục đại học; 170 trường phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở và trung học phổ thông; 124 trường trung học có yếu tố nước ngoài, trong đó có 46 trường trung học cơ sở và 78 trường trung học phổ thông;
Số trường đạt chuẩn quốc gia và số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục tiếp tục giữ ổn định và tăng trong năm học 2022-2023.
Tổng trường đạt chuẩn quốc gia cấp trung học cơ sở năm học 2022-2023 đạt tỉ lệ 59,47%; Số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục năm học 2022-2023 cấp trung học cơ sở đạt tỉ lệ khoảng 60%; tổng trường đạt chuẩn quốc gia cấp trung học phổ thông năm học 2022-2023 đạt tỉ lệ khoảng 38,40%; số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục cấp trung học phổ thông năm học 2022-2023 đạt tỉ lệ khoảng trên 44%.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo |
Qua biểu đồ cho thấy một số địa phương có tỉ lệ trường chuẩn quốc gia cao gần đạt 90% như: Bắc Ninh; Hà Nam; Ninh Bình; Nam Định; một số tỉnh đạt trên 80% như: Bắc Giang; Bắc Ninh; Hà Nam; Hải Dương; Hậu Giang; Nam Định; Ninh Bình; Quảng Ninh; Thái Nguyên; Vĩnh Phúc. Các tỉnh trên đa số ở khu vực đồng bằng sông Hồng nơi có điều kiện về kinh tế phát triển, địa phương quan tâm đầu tư trường lớp, cơ sở vật chất, khuôn viên nhà trường theo tiêu chí của Thông tư 13/2020/TT-BGDĐT và Thông tư 18/2018/TT-BGDĐT.
Tuy nhiên, so với Thông tư 13/2020/TT-BGDĐT về ban hành Quy định tiêu chuẩn cơ sở vật chất các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học nhiều trường không đáp ứng được các tiêu chí về diện tích đất/học sinh; diện tích phòng học, khuôn viên nhà trường, tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích công trình của nhiều trường học tại các khu đô thị, trong nội thành chưa đáp ứng và đảm bảo tiêu chuẩn về cơ sở vật chất theo Thông tư 13/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Do vậy, nhiều trường khi đánh giá lại sẽ không đạt trường chuẩn quốc gia theo các tiêu chí mới.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do việc thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp, sáp nhập, dồn dịch điểm trường và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tại các địa phương còn gặp nhiều khó khăn theo đặc thù từng địa phương: về nguồn lực; sự đồng thuận của phụ huynh; tính quyết liệt của địa phương; phương tiện dạy học, sân chơi, bãi tập, nhà vệ sinh... của một số trường chưa đáp ứng được yêu cầu; số phòng học và phòng học bộ môn cơ bản đáp ứng cho việc dạy và học, một số phòng bộ môn thiếu thiết bị hoặc thiết bị chưa đáp ứng theo yêu cầu của chương trình mới.
Ngoài ra, một số địa phương do điều kiện kinh tế khó khăn, nguồn vốn đầu tư hạn chế nên chưa chú trọng dành các nguồn ngân sách địa phương để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trường học, chủ yếu trông chờ các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương.