Xuân về nhớ thơ chúc Tết của Bác!

11/02/2021 06:19
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió, Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông. Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở nhở các cơ quan, ban, ngành chuẩn bị Tết cho nhân dân chu đáo.

Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị 3 việc: tìm ý thơ cho bài thơ mừng năm mới; nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp Chúc mừng năm mới để kịp gửi đến những nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo và cán bộ công tác ở nước ngoài; và cuối cùng là lên kế hoạch đi thăm hỏi, chúc Tết nhân dân, các cơ quan, đơn vị (một chương trình riêng mà chỉ Bác và cảnh vệ biết).

Từ lâu, nhân dân ta có thói quen vào đêm giao thừa luôn ngóng nghe thơ chúc Tết của Bác trên làn sóng điện và về sau là qua ti vi.

Thời còn chưa cấm đốt pháo, nhà thơ Tố Hữu viết: Bác ơi! Tết đến. Giao thừa đó/ Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần/ Ríu rít đàn em vui pháo nổ/ Tưởng nghìn tay Bác vỗ sang xuân...

Bài thơ chúc Tết đầu tiên của Bác là vào ngày 1/1/1942. Bác viết trên báo Việt Nam độc lập (số 114, ngày 1/1/1942): Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi, Nǎm cũ qua rồi, chúc nǎm mới: Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong! Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi! Chúc đồng bào ta đoàn kết mau! Chúc Việt-minh ta càng tấn tới, Chúc toàn quốc ta trong nǎm này Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới! Nǎm này là nǎm Tết vẻ vang, Cách mệnh thành công khắp thế giới.

Tháng 8 năm ấy, Bác sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng chống Nhật của người Việt Nam ở đó thì bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam ngay tại gần biên giới.

Bị giải qua khoảng 30 nhà lao ở Quảng Tây, Bác chịu biết bao cực khổ, nhưng như Bác tâm sự qua Nhật ký trong tù: Tai ương bả ngã lai đoàn luyện. Sử ngã tinh thần cánh khẩn trương (Nghĩ mình trong bước gian truân, Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng).

Tháng 9 năm 1943, Bác được trả lại tự do và chắp lại liên lạc với Đảng để về nước. Xuân Giáp Thân 1944, Bác viết trên báo Đồng Minh số Xuân: Năm cũ lịch cũ vừa qua, Năm mới lịch mới lại tới! Rót cốc rượu Xuân, mừng cách mạng, Viết bài chào Tết, chúc thành công!

Năm 1945, Bác bận rộn với việc lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945.

Tết độc lập 1946, Bác viết bài Mừng xuân Bính Tuất, đăng trên báo Cứu quốc số 155: Hỡi các chiến sĩ yêu quí, Bao giờ kháng chiến thành công, Chúng ta cùng uống một chung rượu đào. Tết này ta tạm xa nhau, Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy. Chúc đồng bào: Trong nǎm Bính Tuất mới, Muôn việc đều tiến tới. Kiến quốc mau thành công, Kháng chiến mau thắng lợi. Việt Nam độc lập muôn nǎm!

Xuân Đinh Hợi 1947, Bác viết: Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió, Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng. Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào! Sức ta đã mạnh, người ta đã đông. Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi! Thống nhất độc lập, nhất định thành công!.

Xuân Mậu Tý 1948, Bác viết: Nǎm Hợi đã đi qua, Nǎm Tý vừa bước tới. Gửi lời chúc đồng bào, Kháng chiến được thắng lợi; Toàn dân đại đoàn kết, Cả nước dốc một lòng, Thống nhất chắc chắn được, Độc lập quyết thành công.

Xuân Kỷ Sửu 1949, Bác viết: Kháng chiến lại thêm một nǎm mới, Thi đua ái quốc thêm tiến tới. Động viên lực lượng và tinh thần, Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi. Người người thi đua. Ngành ngành thi đua. Ngày ngày thi đua. Ta nhất định thắng, Địch nhất định thua.

Xuân Canh Dần 1950, Bác viết: Kính chúc đồng bào nǎm mới, Mọi người càng thêm phấn khởi, Toàn dân xung phong thi đua, Đẩy mạnh cuộc chuẩn bị tới, Chuyển mau sang tổng phản công, Kháng chiến nhất định thắng lợi.

Xuân Tân Mão 1951, Bác viết: Xuân này kháng chiến đã nǎm xuân, Nhiều xuân thắng lợi càng gần thành công. Toàn hǎng hái một long, Thi đua chuẩn bị, tổng phản công kịp thời.

Xuân Nhâm Thìn 1952, Bác viết: Xuân này, xuân nǎm Thìn, Kháng chiến vừa sáu nǎm, Trường kỳ và gian khổ, Chắc thắng trǎm phần trǎm. Chiến sĩ thi giết giặc. Đồng bào thi tǎng gia. Nǎm mới thi đua mới. Thắng lợi ắt về ta. Mấy câu thành thật nôm na, Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân.

Xuân Quý Tỵ 1953, Bác viết: Mừng nǎm Thìn vừa qua, Mừng xuân Tỵ đã tới. Mừng phát động nông dân, Mừng hậu phương phấn khởi. Mừng tiền tuyến toàn quân, Thi đua chiến thắng mới. Mừng toàn dân kết đoàn, Mừng kháng chiến thắng lợi. Mừng nǎm mới, nhiệm vụ mới, Mừng toàn thể chiến sĩ và đồng bào, Mừng phe dân chủ hoà bình thế giới.

Xuân Giáp Ngọ 1954, Bác viết: Nǎm mới, quân dân ta có hai nhiệm vụ rành rành: - Đẩy mạnh kháng chiến để giành độc lập tự do,- Cải cách ruộng đất là công việc rất to. Dần dần làm cho người cày có ruộng khỏi lo nghèo nàn. Quân và dân ta nhất trí kết đoàn, Kháng chiến, kiến quốc nhất định hoàn toàn thành công. Hoà bình dân chủ thế giới khắp Nam, Bắc, Tây, Đông. Nǎm mới, thắng lợi càng mới, thành công càng nhiều.

Năm 1955, Bác trở về Thủ đô vào ngày 1 tháng 1. Bác bận rộn với nhân dân Thủ đô sau ngày giải phóng và lo lắng trước việc đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, chuẩn bị gây lại chiến tranh.

Xuân 1956, Bác viết ngay từ ngày 1 tháng 1: Thân ái mấy lời chúc Tết: Toàn dân đoàn kết một lòng, Miền Bắc thi đua xây dựng, Miền Nam giữ vững thành đồng, Quyết chí, bền gan phấn đấu, Hoà bình, thống nhất thành công.

Năm 1957 và năm 1958, Bác chỉ có Thư chúc Tết, không có thư.

Năm 1959, Bác viết: Chúc mừng đồng bào nǎm mới, Đoàn kết thi đua tiến tới, Hoàn thành kế hoạch ba nǎm, Thống nhất nước nhà thắng lợi.

Xuân 1960, Bác viết: Mừng Nhà nước ta 15 xuân xanh! Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ! Chúc đồng bào ta đoàn kết thi đua, Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chúc đồng báo ta bền bỉ đấu tranh, Thành đồng miền Nam vững bền mạnh mẽ. Cả nước một lòng, hǎng hái tiến lên,Thống nhất nước nhà, Bắc Nam vui vẻ!

Năm 1961, Bác viết: Mừng nǎm mới, mừng xuân mới, Mừng Việt Nam, mừng thế giới! Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh, Kế hoạch 5 nǎm thêm phấn khởi. Chúc miền Bắc hǎng hái thi đua; Chúc miền Nam đoàn kết tiến tới! Chúc hoà bình thống nhất thành công! Chúc chủ nghĩa xã hội thắng lợi!

Xuân Nhâm Dần 1962, Bác viết: Nǎm Dần, mừng Xuân thế giới, Cả nǎm châu phấp phới cờ hồng. Chúc miền Bắc thi đua phấn khởi, Bốn mùa hoa Duyên-hải, Đại-phong. Chúc miền Nam đấu tranh tiến tới, Sức triệu người hơn sóng biển Đông. Chủ nghĩa xã hội càng thắng lợi, Hoà bình thống nhất quyết thành công.

Năm 1963, Bác viết: Mừng nǎm mới, Cố gắng mới, Tiến bộ mới, Chúc Quý Mão là nǎm nhiều thắng lợi!

Xuân Giáp Thìn 1964, Bác viết: Bắc Nam như cội với cành, Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng. Rồi đây thống nhất thành công, Bắc Nam ta lại vui chung một nhà. Mấy lời thân ái nôm na, Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân.

Xuân Ất Tỵ 1965, Bác viết: Chào mừng Ất Tỵ xuân nǎm mới, Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi, Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi, Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới, Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi, Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng, Chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi! Hoà bình thống nhất ắt hẳn thành công!

Xuân Bính Ngọ 1966, Bác viết: Mừng miền Nam rực rỡ chiến công, Nhiều Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Plei Me, Đà Nẵng. Mừng miền Bắc chiến đấu anh hùng, Giặc Mỹ leo thang ngày càng thua nặng. Đồng bào cả nước đoàn kết một lòng, Tiền tuyến hậu phương, toàn dân cố gắng. Thi đua sản xuất chiến đấu xung phong, Chống Mỹ, cứu nước, ta nhất định thắng.

Xuân Bính Mùi 1967, Bác viết: Xuân về xin có một bài ca, Gửi chúc đồng bào cả nước ta: Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi, Tin mừng thắng trận nở như hoa!

Xuân Mậu Thân 1968, Bác viết: Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,Thắng trận tin vui khắp nước nhà, Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!

Xuân Kỷ Dậu 1969, năm cuối cùng Bác còn ăn Tết với nhân dân ta, Bác viết: Nǎm qua thắng lợi vẻ vang, Nǎm nay tiền tuyến chắc càng thắng to. Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào. Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào, Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn!

Lời chúc Tết cuối cùng trước khi người đi xa đã trở thành hiện thực. Ngày 30/4/1975, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn.

Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: Nếu thơ trữ tình được Bác chủ yếu sử dụng chữ Hán, với những lối ví von hình ảnh, uyên thâm thì thơ Tết và thơ cổ động lại được chủ yếu viết theo chữ Quốc ngữ với lối viết giản dị, rõ ràng thể hiện tinh thần mạnh mẽ, ý chí quyết tâm của vị lãnh tụ.

Bài Chúc đồng bào năm 1946 có lời gọn như khẩu hiệu và ý rõ như hiệu triệu. Hiệu triệu mọi việc phải tiến tới. Trong đó có hai việc lớn là kiến quốc và kháng chiến. Kiến quốc thì mau thành công. Kháng chiến thì mau thắng lợi.

Bác đặt nhiệm vụ kiến quốc trước, kháng chiến sau vì đó là đầu năm 1946, khi kháng chiến mới chỉ xảy ra ở Nam Bộ. Còn sau ngày 19/12/1946, nghĩa là Thơ chúc Tết các năm 1947, 1948, 1949, 1950, 1951, 1952, 1953 thì chỉ nói đến nhiệm vụ kháng chiến. Có nói thêm thi đua và tăng gia sản xuất cũng chỉ là nói đến mấy biện pháp cần làm để kháng chiến mau thành công. Lưu ý cái đích của lời chúc không phải chập chờn giữa Thắng và Thua - phải Thắng, giữa Thành và Bại - phải Thành, mà là rọi vào chữ Mau. Thành và Thắng là cái tất yếu không bàn ở chỗ đó, mà ở chỗ phải Mau, mau đến thành công và mau đến thắng lợi”.

Nhà thơ Tố Hữu viết: Nào đi tới! Bác Hồ ta nói. Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân, Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân, Mời những bàn chân, tiến lên phía trước. Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!

Đã hơn nửa thế kỷ chúng ta không còn có được niềm vui đón nghe thơ Bác mỗi độ Xuân về. Vậy mà những vần thơ chúc Tết của Bác hầu như vẫn còn ngân vang trong trí óc của mỗi chúng ta.

Đó là tấm lòng của Bác đối với nhân dân, đối với sự nghiệp kháng chiến, bảo vệ đất nước và xây dựng một giang sơn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng