TS.Bùi Hữu Toàn: Môi trường đại học số đòi hỏi giảng viên nhiều kỹ năng mới

21/02/2022 06:38
Thùy Linh (thực hiện)
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Môi trường số đòi hỏi giảng viên không chỉ dừng ở việc truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo ra môi trường học tập cho sinh viên.

LTS: Để hiểu rõ vai trò của trường đại học trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao nhất là khi thực hiện chuyển đổi số, phóng viên Tạp chí điện tử giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng.

Phóng viên: Đại hội XIII của Đảng xoay quanh tám từ "Khát vọng, "Phát triển", "Đổi mới", "Sáng tạo". Thầy nghĩ sao nếu những từ khóa quan trọng này áp vào sự đổi mới, phát triển của giáo dục đại học nhất là khi triết lý của Học viện Ngân hàng là "Toàn diện - Sáng tạo - Hội nhập"?

Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn: Nghiên cứu văn kiện Đại hội đảng qua các kỳ Đại hội, chúng ta nhận thấy rất rõ rằng, mỗi kỳ Đại hội, tùy thuộc tình hình và mục tiêu định hướng chiến lược mà Đảng đưa ra những chủ đề, những điểm nhấn và đấy có thể được xem là điểm cốt lõi mà Đảng muốn định hướng, lãnh đạo đất nước.

Ví dụ như: điểm nhấn của Đại hội VI là Đại hội đổi mới; Đại hội VII là Đại hội đề ra Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đại hội VIII là Đại hội đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đại hội IX là Đại hội xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đại hội X là Đại hội tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng nước kém phát triển….

Đại hội XIII của Đảng có những điểm nhấn, tôi cho rằng mang tính đột phá, trong đó có hai thành tố mới được đề cập và nhấn mạnh nhiều lần, từ chủ đề Đại hội, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Đó là khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc với mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo.

Có lẽ, có rất nhiều cách diễn đạt, phân tích nội hàm của các điểm nhận nêu trên, nhưng tựu chung lại chúng ta có thể hiểu việc xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc không còn là mong muốn mà đã được nâng lên một mức độ rất cao, đó là Khát vọng. Khát vọng phát triển đất nước, đưa đất nước phồn vinh và hạnh phúc là ước ao cháy bỏng của Đảng, của cả dân tộc và mọi người dân Việt Nam và đổi mới, sáng tạo được coi là động lực tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện, đồng bộ và là cơ sở để tạo ra sự phát triển vượt bậc tất cả các mặt của đời sống kinh tế, xã hội.

Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng (ảnh: NTCC)

Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng (ảnh: NTCC)

Những điểm nhấn nêu trên của Văn kiện Đại hội XIII trở thành kim chỉ nam định hướng và trở thành phương châm hành động của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đại học, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay.

Các trường đại học đóng vai trò chủ chốt, tiên phong trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao, vì vậy các trường cần liên tục đổi mới, sáng tạo trong chương trình, phương pháp đào tạo và thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học để góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đáp ứng được những nhu cầu quan trọng của xã hội.

Không thể tách rời xu thế phát triển chung và triển khai định hướng của Đảng, Nhà nước, Học viện Ngân hàng xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn 2045 trong đó xác định tầm nhìn đến năm 2045 trở thành trường đại học thông minh và kiên trì thực hiện xuyên suốt triết lý giáo dục “Toàn diện - Sáng tạo - Hội nhập”.

Theo đó, Học viện Ngân hàng đào tạo người học phát triển toàn diện về trình độ chuyên môn, phương pháp tư duy, cách thức tiếp cận và khả năng thích ứng đi kèm với đạo đức nghề nghiệp và khả năng phụ sự đất nước; người học được học tập và rèn luyện trong môi trường giáo dục văn minh, khai phóng sự sáng tạo về tri thức mới và ứng dụng tri thức trong thực tiễn và đặc biệt là sự hòa nhập, hội nhập trong điều kiện hiện nay.

Thực tế cho thấy, xây dựng chiến lược nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức. Vậy theo Thầy, chiến lược nhân sự có mối tương quan thế nào trong chiến lược phát triển một cơ sở giáo dục đại học? Thầy có thể cho biết Chiến lược nhân sự được thể hiện như nào trong Chiến lược phát triển Học viện Ngân hàng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045?

Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn: Chiến lược nhân sự là cấu phần quan trọng nằm trong chiến lược phát triển cơ sở giáo dục đại học. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, đội ngũ nhân sự là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định việc phát triển của bất kỳ tổ chức nào.

Điều này càng đúng hơn đối với cơ sở giáo dục đại học. Bởi hoạt động chính của đại học là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đây đều là các hoạt động đòi hỏi sự chuyên nghiệp, có chuyên môn cao, có khả năng sáng tạo tri thức và có phẩm chất đạo đức tốt.

Đội ngũ cán bộ, nhân sự là những người trực tiếp hiện thực hoá các mục tiêu, các hoạt động trong chiến lược phát triển cơ sở giáo dục đại học. Do đó, sự thành công của chiến lược phát triển chung cũng được quyết định bởi chiến lược nhân sự. Khi các cấu phần của chiến lược nhân sự (như tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng và đánh giá, trả lương…..) được hoạch định rõ ràng, minh bạch thì cơ sở giáo dục đại học mới thể thu hút và giữ chân được đội ngũ nhân sự chất lượng cao, đủ cả tài và đức.

Chính đội ngũ cán bộ chất lượng cao này sẽ quyết định việc nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao chất lượng đầu ra của người học, và đương nhiên góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng cho hoạt động chung của nhà trường, từ đó nâng tầm vị thế của nhà trường.

Bên cạnh đó, chiến lược nhân sự còn có mối liên kết chặt chẽ với các chiến lược khác của trường đại học như chiến lược tài chính, chiến lược đào tạo, chiến lược khoa học và công nghệ, chiến lược hợp tác…Các chiến lược này được thực hiện song song, hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu chung trong chiến lược phát triển cơ sở giáo dục đại học.

Đối với Học viện Ngân hàng, trong nhiều năm qua, chúng tôi đã tập trung vào việc xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, viên chức quản lý và cho đến thời điểm hiện tại Học viện Ngân hàng có đội các nhà khoa học uy tín, trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản trong và ngoài nước, đảm bảo tốt cho việc đào tạo các bậc từ đại học, thạc sỹ, tiến sĩ theo từng ngành đào tạo đã được công bố, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Trong thời gian tới chúng tôi tiếp tục kiện toàn và nâng cao số lượng và chất lượng giảng viên, nhà khoa học. Điều này được thể hiện trong Chiến lược chiến lược phát triển Học viện Ngân hàng giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2045, một số điểm nổi bật như:

Thực hiện chính sách tuyển dụng ưu đãi đối với chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước gắn với các tiêu chí về đạo đức, học thuật và kỹ năng, đáp ứng nhu cầu phát triển của Học viện; Có chính sách hỗ trợ về vật chất, thời gian và điều kiện làm việc để bồi dưỡng, phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu các ngành đào tạo của Học viện ngân hàng.

Phát triển mô hình quản trị đại học tiên tiến, hiện đại trên cơ sở hoàn thiện các cơ chế, quy chế cho quá trình vận hành. Nâng cao hiệu quả quản trị và vai trò giám sát của Hội đồng trường, năng lực điều hành của Ban Giám đốc và khả năng thực thi của các đơn vị chức năng.

Xây dựng chính sách khuyến khích đối với những giảng viên, nghiên cứu viên có học vị Tiến sĩ, học hàm Phó giáo sư, Giáo sư. Hoàn thiện hệ thống đánh giá kết quả thực hiện công việc (KPI) gắn với vị trí việc làm đảm bảo công bằng, chính xác; Xây dựng cơ chế trả lương theo vị trí việc làm theo Nghị quyết của Đảng và theo quy định của pháp luật.

Xây dựng mạng lưới kết nối giảng viên, nhà khoa học của Học viện Ngân hàng với đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trên thế giới, tăng cường trao đổi học thuật cũng như thực hiện chuyển giao công nghệ đào tạo từ các đối tác là các trường đại học có uy tín trên thế giới;

Tỷ lệ tiến sĩ đạt tối thiểu 65% (năm 2030) và 90% (năm 2045); Tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư đạt tối thiểu 10% (năm 2030) và 15% (năm 2045); Đào tạo, phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực đào tạo của Học viện.

Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Trên cơ sở đó, ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030. Vậy Học viện Ngân hàng đã có những định hướng gì để đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong tất cả các hoạt động (đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản trị điều hành,…)? Vai trò người thầy sẽ ở đâu khi nhà trường thực hiện chuyển đổi số?

Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn: Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mang lại những mô hình đào tạo mới, tận dụng được thành tựu kỹ thuật hiện đại như các khóa học mở trực tuyến đại trà, các nền tảng đào tạo trực tuyến như Cousera, Udemy, edX; các phương pháp đào tạo mới như học tập thích ứng (Adaptive learning) và các cơ sở dữ liệu nghiên cứu khoa học trực tuyến chia sẻ miễn phí (Open Access databases). Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu đối với các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng quản lý và đào tạo, hướng tới việc tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.

Nắm bắt xu hướng trên, Học viện Ngân hàng đã chủ động xây dựng Chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, với định hướng phát triển trở thành “đại học thông minh có hệ thống giá trị hiện đại gắn liền với chuyển đổi số trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động cộng đồng vào năm 2045”. Theo đó, các chiến lược được Học viện Ngân hàng chú trọng thực hiện trong giai đoạn tới bao gồm:

Triển khai chương trình bồi dưỡng, nâng cao, phát triển năng lực số cho cán bộ, giảng viên, đảm bảo nguồn nhân lực trong Học viện đạt chuẩn năng lực số phù hợp theo khung năng lực số của UNESCO;

Xây dựng kế hoạch đánh giá và nâng cấp hạ tầng thiết bị công nghệ, đầu tư phát triển hạ tầng cho một môi trường số thống nhất, đảm bảo sự vận hành cho hoạt động quản trị, đào tạo, nghiên cứu trong Học viện.

Triển khai các dự án số hóa quy trình, tiến tới việc tự động hóa các quy trình nghiệp vụ trong toàn Học viện, tích hợp các công nghệ số cần thiết để triển khai các hoạt động quản trị điều hành, nghiên cứu, sáng tạo, truyền bá, chia sẻ tri thức;

Hình thành trung tâm học liệu, triển khai các dự án số hóa bài giảng và tài liệu học tập, đưa các học liệu số lên không gian mạng có kiểm soát lên nền tảng phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chia sẻ tri thức.

Chuyển đổi môi trường và phương thức đào tạo chính quy và đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên như triển khai các hình thức học tập và giảng dạy tương tác, hợp tác và hỗ trợ số; Triển khai các phương thức đánh giá và kiểm tra trực tuyến, tích hợp các quy trình đánh giá và khảo sát người học trên môi trường số, từng bước cung cấp các chứng chỉ số và văn bằng số theo các quy định của Nhà nước; Xây dựng kế hoạch cung cấp các khóa đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn trực tuyến, tích hợp nền tảng đào tạo mở trực tuyến MOOC và cung cấp các chương trình đào tạo trực tuyến chất lượng cao ra cộng đồng;

Trong quá trình đào tạo, trong môi trường giáo dục số, ngoài việc truyền tải kiến thức theo phương pháp truyền thống thông qua giờ học trên lớp, giáo trình, tài liệu học tập, theo tôi, vai trò của người thầy còn thể hiện ở hai điểm:

Một là, tạo dựng môi trường và hứng thú học tập cho sinh viên: Học tập trong thời đại số tạo cơ hội cho sinh viên tiếp xúc với lượng kiến thức đa dạng mọi lúc, mọi nơi, nhưng cũng đặt áp lực buộc sinh viên phải tự quản lý, tự đốc thúc quá trình học tập. Trong bối cảnh đó, người giáo viên cần tạo dựng môi trường học tập năng động, sáng tạo, truyền cảm hứng cho sinh viên về kiến thức chuyên môn cũng như thái độ sống và học tập, từ đó khơi dậy đam mê nghiên cứu và khám phá cái mới trong sinh viên

Hai là, định hướng học tập và phản biện: Một vai trò rất quan trọng khác của người thầy khi chuyển đổi phương pháp học tập là việc định hướng học tập và phản biện học tập với người học. Các kiến thức mà sinh viên được tiếp cận ngày càng phong phú và đa dạng dưới sự hỗ trợ của công nghệ, song không phải lúc nào các kiến thức này cũng có chất lượng tốt và phù hợp. Do đó, người thầy cần có những hướng dẫn, giới thiệu nguồn tham khảo, cũng như thường xuyên trao đổi, phản biện với người học để có những điều chỉnh kiến thức kịp thời cho sinh viên.

Như vậy, môi trường số đòi hỏi giảng viên không chỉ dừng ở việc truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo ra môi trường học tập cho sinh viên; không chỉ dừng ở việc giảng bài mà cần hỗ trợ định hướng học tập cho sinh viên, khai phóng sự sáng tạo của sinh viên và cùng với nhà trường kiến tạo môi trường học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học chủ động, sáng tạo, văn minh, hiện đại và thân thiện.

Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Bùi Hữu Toàn.

Thùy Linh (thực hiện)