Lần đầu tiên Việt Nam có trường lọt tốp 1.000 đại học uy tín

16/08/2019 09:50
Thùy Linh
(GDVN) - Đại học Tôn Đức Thắng lọt tốp 1.000 bảng xếp hạng Academic Ranking of World Universities (ARWU) năm 2019.

Theo đó, Đại học Tôn Đức Thắng được xếp tốp 901- 1.000 của Academic Ranking of World Universities (viết tắt là ARWU) năm 2019.

Đây là bảng xếp hạng thường được biết đến với cái tên là Shanghai Ranking (Bảng xếp hạng Thượng Hải), do Trường Đại học Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc) thực hiện.

Đây là lần đầu tiên một trường đại học của Việt Nam được xếp trong bảng này.

Đại học Tôn Đức Thắng được xếp tốp 901- 1.000 của Academic Ranking of World Universities (Ảnh chụp màn hình)
Đại học Tôn Đức Thắng được xếp tốp 901- 1.000 của Academic Ranking of World Universities (Ảnh chụp màn hình)

Theo Tiến sĩ Lê Văn Út, Trưởng Phòng Quản lý phát triển Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết ARWU áp dụng các tiêu chí đánh giá khách quan, không dựa trên khảo sát chủ quan, họ tự đánh giá chứ các đại học không phải nộp hồ sơ cho họ.

Đứng đầu bảng xếp hạng ARWU 2019 chủ yếu là các đại học ở Mỹ. Đứng ở vị trí số 1 là Đại học Harvard. Đứng thứ 2 là Đại học Stanford.

Được biết, Bảng xếp hạng ARWU của Đại học Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc) ra đời từ năm 2003 (trước cả bảng xếp hạng THE và QS).

ARWU xây dựng bốn tiêu chí đánh giá chính bao gồm: Chất lượng giáo dục (10%), Chất lượng giảng viên (40%), Nghiên cứu khoa học (40%) và Năng suất học thuật bình quân trên đầu người (10%).

Giáo dục Việt Nam đứng thứ 10 thế giới, tôi tin điều đó

Đối với 10% đánh giá xếp hạng từ chất lượng giáo dục, ARWU xem xét tổng số cựu sinh viên đoạt giải Nobel và huy chương Fields - những người có bằng cử nhân, thạc sĩ hoặc tiến sĩ từ cơ sở giáo dục.

40% chất lượng giáo viên được đánh giá dựa trên số giảng viên được giải Nobel và huy chương Fields (20%), số nhà nghiên cứu được trích dẫn nhiều thuộc 21 lĩnh vực (20%).

40% tiêu chí nghiên cứu khoa học sẽ xem xét số bài báo xuất bản trên tạp chí Nature and Science chiếm 20%, số bài báo được trích dẫn trong hệ thống các tạp chí Science Citation Index Expanded (SCIE) và Social Science Citation Index (SSCI) chiếm 20%.

10% cuối cùng về chỉ số về năng suất học thuật bình quân, được tính bằng cách chia tổng điểm các mục trên cho tổng số cán bộ toàn thời gian của cơ sở.

Như vậy có thể thấy, hệ thống xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải chủ yếu sử dụng số liệu công khai của các tổ chức ngoài cơ sở đại học.

Thùy Linh