Không xây dựng “university” đúng chất là cản trở để có đại học đẳng cấp thế giới

27/09/2021 06:34
Minh Ngọc
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, kinh nghiệm từ các nước cho thấy thông thường có 3 cách để tạo nên đại học đẳng cấp thế giới.

Sự tách rời giữa hệ thống các trường đại học và các viện nghiên cứu lớn, và việc vắng mặt các trường đại học đa lĩnh vực là hai tàn tích của mô hình Liên Xô cũ. Đây chính là hai cản trở lớn làm cho khối các nước kinh tế chuyển đổi có rất ít trường đại học đẳng cấp thế giới.

Việt Nam muốn sớm có các trường đại học đẳng cấp thế giới thì cần quyết tâm cao trong việc khắc phục các cản trở nói trên. Đó là quan điểm của Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) khi chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam.

Qua nghiên cứu, Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhận thấy, thông thường đại học đẳng cấp thế giới sẽ được thể hiện ở 3 khía cạnh.

Thứ nhất, cơ sở giáo dục đại học đó tập trung nhiều tài năng (bao gồm cả sinh viên, giảng viên), xuất sắc.

Thứ hai, đó là ngôi trường có vật lực, tài lực dồi dào.

Thứ ba, có hệ thống quản lý, quản trị tốt, thuận lợi.

“Ba đặc điểm này tạo nên đại học đẳng cấp thế giới, có chất lượng cao. Ở nhiều nước, vài thập niên gần đây họ quan tâm nhiều tới đại học đẳng cấp thế giới, kể cả các nước khu vực Đông Nam Á”, Giáo sư Lâm Quang Thiệp đánh giá.

Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), ảnh: Thùy Linh.

Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), ảnh: Thùy Linh.

Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, kinh nghiệm từ các nước cho thấy thông thường có 3 cách để tạo nên đại học đẳng cấp thế giới.

Một là, chọn lựa một số cơ sở giáo dục đại học đang có rồi nâng cấp lên.

Hai là, thực hiện sáp nhập một số trường khác nhau tạo thành một đại học lớn để phát triển.

Ba là, thành lập một trường mới hoàn toàn. Cách này tốn kém nhiều nhất.

Tại Việt Nam, việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam được bắt đầu cách đây 15 năm. Theo đó, năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập Tổ công tác xây dựng Đề án thành lập trường đại học đẳng cấp quốc tế. Giai đoạn đầu triển khai dự án, có 2 trường đại học theo mô hình mới là trường Đại học Việt-Đức ở Bình Dương và trường Đại học Khoa học và Công nghệ (trường Đại học Việt-Pháp) ở Hà Nội. Đến nay 2 đại học này chưa lọt vào top nào.

Nhìn nhận về bảng xếp hạng thế giới THE 2022 vừa công bố Việt Nam có 5 đại diện trong đó Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân cùng ở thứ hạng 401-500;

3 cơ sở giáo dục đại học còn lại là: Đại học Quốc gia Hà Nội (thứ hạng 1001 – 1200), Đại Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường đại học Bách khoa Hà Nội cùng thứ hạng 1201+, phải nói rằng, đây là 5 cơ sở giáo dục đại học không thực hiện theo Đề án năm 2006 của Chính phủ.

Nhìn vào thứ hạng của 2 trường lọt top 401-500, Giáo sư Lâm Quang Thiệp cho rằng, bảng xếp hạng này cho thấy cơ chế tự chủ đại học đã giúp Trường Đại học Tôn Đức Thắng bứt phá rất nhanh, từ một đại học không tên tuổi gì, vị trí rất thấp trong hệ thống đại học Việt Nam sau hơn chục năm đã trở thành đại học xuất sắc được vinh danh trong TOP 500 đại học tốt nhất thế giới bởi Tổ chức xếp hạng đại học thế giới thuộc Thời báo Times vào năm 2021 với dữ liệu tích lũy từ tháng 8/2015 đến tháng 8/2020.

Còn trường Đại học Duy Tân là một cơ sở giáo dục đại học tư thục trên địa bàn miền Trung còn nhiều khó khăn nhưng họ đã rất nỗ lực, cố gắng để có được kết quả này.

Qua bảng xếp hạng cũng thấy được rằng, hai Đại học Quốc gia được đầu tư rất nhiều nhưng kết quả vẫn chỉ dao động ở top 1001 – 1200.

Lý giải điều này, Giáo sư Lâm Quang Thiệp chỉ ra rằng, lý do 2 đại học quốc gia chưa đạt được kết quả cao do việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế ban đầu là trở thành một đại học đa lĩnh vực, lý do chủ yếu là các trường thành viên phản đối việc sáp nhập, vì mất nhiều “ghế” quản lý và “trường” bị hạ cấp thành khoa. Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế tổ chức được xây dựng theo mô hình đại học hai cấp.

Theo mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, sự kết nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng của “đại học” thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp, giống như các “bộ đại học” nhỏ. Các đại học “hai cấp” ở nước ta không phát huy được các thế mạnh của mô hình “university”.

Trước hết, các trường thành viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh vực, lại liên kết với nhau rất lỏng lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo, nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng đào tạo theo chương trình giáo dục khai phóng không thể hiện được.

Cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để tăng hiệu quả.

Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình đại học quốc gia nên Ngân hàng Thế giới đã có một văn bản góp ý chính thức khi xây dựng Luật Giáo dục đại học 2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó.

Bởi họ nói rằng đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam (“is unique to Vietnam”) và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We have not come across this set up in any country in the world”).

Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một mô hình “không giống ai” trên thế giới, và có nhiều nhược điểm. Theo họ, các nhược điểm đó là: “Không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn.

Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực. Các cơ sở đại học phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính.

Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rãi.”

"Các nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm của mô hình đại học hai cấp mà chúng tôi đã nhiều lần phát biểu", Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhấn mạnh.

Giáo sư Lâm Quang Thiệp khẳng định: “Rõ ràng việc hai đại học lớn nhất ở nước ta không được xây dựng theo mô hình “university” thật sự là một cản trở lớn để chúng phấn đấu trở thành đại học đẳng cấp thế giới.

Và muốn giảm bớt những cản trở trên con đường phấn đấu để có các trường đại học đẳng cấp thế giới, chúng ta cần thay đổi hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu và điều chỉnh các mô hình đại học để có các đại học đa lĩnh vực thật sự để đáp ứng 3 yếu tố của đại học đẳng cấp thế giới như đã nêu".

Cuối cùng, Giáo sư Thiệp cho rằng, cơ chế quản trị đại học hiện nay quan trọng nhất là tự chủ. Trường Đại học Tôn Đức Thắng thành công chính là nhờ tự chủ đại học tuy nhiên ở ta nhiều chủ trương đã được Nhà nước đưa ra, quy định trong Luật tuy nhiên không được quán triệt triệt để ở các cấp thực hiện do đó đã gây nhiều hạn chế, vướng mắc cho cơ sở giáo dục.

“Cần có Nghị định riêng cho các trường đại học tự chủ để đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần và nguyên tắc tự chủ đồng thời quán triệt sâu sắc đến cơ quan quản lý trực tiếp. Phải hoàn thiện hành lang pháp lý đảm bảo đồng bộ, nhất quán thì tự chủ đại học mới đi vào thực tiễn cuộc sống.

Bởi lẽ, ngay như tự chủ ở Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã có một Quyết định riêng (Quyết định số 158/QĐ-TTg) của Chính phủ tuy nhiên khi triển khai thực hiện thì vướng vì hệ thống văn bản pháp lý đang mâu thuẫn dẫn đến hệ quả như thời gian vừa qua”, Giáo sư Thiệp nói.

Thế mạnh của đại học đa lĩnh vực (university):

Một là, các đại học đa lĩnh vực sẽ đào tạo sinh viên tốt ở phần giáo dục đại cương, phần rất quan trọng của kiến thức đại học mà chỉ trong các university mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt các chương trình giáo dục này.

Hai là, các đại học đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Và đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu của từng nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Minh Ngọc