Bê nguyên bộ sách đã dùng 40 năm, Giáo sư Đại đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi

17/09/2019 06:06
Linh Hương
(GDVN) - “Giáo sư Hồ Ngọc Đại không tuân thủ cuộc chơi tức là tự loại mình ra khỏi cuộc chơi đó”, Giáo sư Trần Đình Sử nhấn mạnh.

Thông tin chính thức từ Hội đồng thẩm định quốc gia về sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, bộ tài liệu “Tiếng Việt 1  - Công nghệ giáo dục” do Giáo sư Hồ Ngọc Đại chủ biên đã bị loại do không đạt yêu cầu.

Bênh thầy Hồ Ngọc Đại, giáo viên trường Thực nghiệm lên tiếng
Bênh thầy Hồ Ngọc Đại, giáo viên trường Thực nghiệm lên tiếng

Cụ thể, sách đã bị 15/15 thành viên hội đồng xếp loại "Không đạt" với gần 300 nội dung, chi tiết cần sửa, cần bỏ, phần lớn là những nội dung mà hội đồng cho rằng sách "vượt chương trình", "quá khó với học sinh lớp 1", một số vấn đề kỹ thuật, trình bày.

Trước thông tin này, chia sẻ với Báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 16/9, Giáo sư Trần Đình Sử - Chủ tịch Hội đồng thẩm định môn tiếng Việt khẳng định các thành viên hội đồng thẩm định đã đánh giá khách quan và bám sát các tiêu chí của chương trình mới.

“Giáo sư Hồ Ngọc Đại không tuân thủ cuộc chơi tức là tự loại mình ra khỏi cuộc chơi đó”, Giáo sư Trần Đình Sử nhấn mạnh. 

Thông tin chính thức từ Hội đồng thẩm định quốc gia về sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, bộ tài liệu “Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục” do Giáo sư Hồ Ngọc Đại chủ biên đã bị loại do không đạt yêu cầu. (Ảnh: Báo Nhân dân)
Thông tin chính thức từ Hội đồng thẩm định quốc gia về sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, bộ tài liệu “Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục” do Giáo sư Hồ Ngọc Đại chủ biên đã bị loại do không đạt yêu cầu. (Ảnh: Báo Nhân dân)

Nói rõ hơn về ý kiến này, thầy Sử chia sẻ, về mặt nguyên tắc, khi chúng ta đã xây dựng và ban hành được chương trình mới thì phải xây dựng được một bộ sách giáo khoa phù hợp cho chương trình mới. 

Hội đồng thẩm định sách giáo khoa phải bám sát vào 4 điều, 13 tiêu chí và 40 chỉ báo trong Thông tư 33/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiêu chuẩn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới để đánh giá bộ sách có đáp ứng yêu cầu hay không. 

Yêu cầu “cuộc chơi” đã rất rõ ràng nhưng Giáo sư Hồ Ngọc Đại bê y nguyên bộ sách đã dùng 40 năm nay gửi tới Hội đồng thẩm định, không chỉnh sửa chi tiết nào. Mặc dù Hội đồng thẩm định đã góp ý những điểm không phù hợp để Giáo sư Hồ Ngọc Đại sửa nhưng thầy Đại không sửa, tức là bắt Hội đồng thẩm định phải thừa nhận sách của mình thì đó là điều không thể. 

Giáo sư Trần Đình Sử phân tích thêm, sách "Tiếng Việt 1" của chương trình mới có các tiêu chí là nghe, nói, đọc, viết, dạy phân biệt chính tả, biết kể chuyện... 

Trước đó, như Báo điện tử giáo dục Việt Nam thông tin, ngày 19/4/2017, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia thẩm định Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục

Đến ngày 12, 13/5/2017, Hội đồng Quốc gia thẩm định Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục đã họp để đánh giá tài liệu này. 

Theo đó, Kết luận của Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cũng đã chỉ ra ưu điểm, hạn chế của mục tiêu chương trình; Phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập; Nội dung dạy học; Ngữ liệu; Cấu trúc sách và cấu trúc bài học và Hình thức trình bày. 

Cụ thể, Hội đồng thẩm định đã có kết luận: 

1. Điều kiện tiên quyết

-Nội dung của Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam; không có những định kiến xã hội về giới, sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, tuổi, địa vị. 

2. Thể hiện mục tiêu của chương trình

a. Ưu điểm

Về lợi ích nhóm đằng sau tranh luận xung quanh Giáo sư Hồ Ngọc Đại
Về lợi ích nhóm đằng sau tranh luận xung quanh Giáo sư Hồ Ngọc Đại

Tài liệu Tiếng Việt 1 đáp ứng một số mục tiêu của chương trình môn Tiếng Việt, nhất là mục tiêu giúp học sinh hình thành và phát triển kỹ năng đọc thành tiếng, viết chính tả, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh; cung cấp một số kiến thức về tiếng Việt, về tự nhiên, xã hội và con người, về văn hóa và văn học. 

b. Hạn chế

- Mục tiêu giúp học sinh phát triển kỹ năng nói và nghe chưa được thể hiện trong tài liệu. Các hướng dẫn, hoạt động giúp học sinh đọc hiểu bài đọc như tìm hiểu nghĩa của từ, nội dung của câu và đoạn văn, trả lời câu hỏi đọc hiểu chưa được chú trọng. Vì vậy học sinh có thể đọc thành tiếng văn bản nhưng không hiểu nghĩa. 

-Tài liệu cũng chưa đáp ứng tốt mục tiêu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, hạn chế này thể hiện rõ nhất qua phần ngữ liệu. 

3. Phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập
a. Ưu điểm
-Vận dụng định hướng học qua thực hành, giúp học sinh hiểu khái niệm và có kỹ năng ngôn ngữ. Thông qua “chuỗi việc làm” trên lớp theo yêu cầu “thầy thiết kế, trò thi công” để học sinh tự hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng đọc và viết.

- Tài liệu Tiếng Việt 1 giúp học sinh nắm vững các quy định về chính tả để viết đúng và phát triển kỹ năng đọc thành tiếng. Phương pháp “lập mẫu” và “dùng mẫu” để học sinh tự lập ra các vần mới, tiếng mới có những hiệu quả nhất định. 

- Tài liệu đã đưa những câu trọn vẹn ngay trong phần đầu của tập 1, giúp học sinh sớm có cơ hội luyện đọc câu (tuy nhiên đôi khi không được tự nhiên). 

- Một số hoạt động, chẳng hạn thao tác phân tích tiếng bằng tay, có phần khơi gợi được hứng thú của học sinh. 

- Tuần 0 thực sự có ý nghĩa trong việc giúp học sinh làm quen với những quy ước và thao tác căn bản ban đầu, giúp quá trình của học sinh diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. 
b. Hạn chế
- Việc thiết kế quy trình chi tiết, ràng buộc quá chặt chẽ đối với cả giáo viên và học sinh có thể hạn chế sự sáng tạo của giáo viên và hứng thú của học sinh. Hoạt động dạy học lặp đi lặp lại, nếu tiếp tục trong khoảng thời gian dài sẽ làm cho hoạt động dạy học trở nên đơn điệu. 

- Việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích cấu trúc âm tiết và luyện phát âm đối với học sinh bản ngữ (tiếng Việt) không thật sự cần thiết và không phù hợp với phương pháp học bản ngữ. 

Hiện nay ngay cả khi dạy học ngôn ngữ thứ hai và ngoại ngữ, phương pháp phân tích cấu trúc ngữ âm như cách của Tài liệu Tiếng Việt 1 cũng ít khi được sử dụng. 

- Quan điểm “chân không về nghĩa” không đúng với bản chất của ngôn ngữ và không phù hợp với thực tiễn dạy học ngôn ngữ, trái với nguyên tắc dạy học tiếng theo quan điểm giao tiếp. 

- Việc sử dụng phương tiện dạy học chưa được quan tâm đúng mức. 

- Việc kiểm tra, đánh giá tập trung chủ yếu vào kỹ năng đọc thành tiếng và viết chính tả của học sinh….

Linh Hương